Tác giả: Đoàn Văn Khâm 段文欽
贈廣智禪師
柱錫危峰擺六塵
默居幻夢問浮雲
慇懃無計參澄什
索絆簪纓在鷺群
Trụ tích nguy phong bãi lục trần
Mặc cư huyễn mộng vấn phù
vân
Ân cần vô kế tham trừng thập
Sách bạn trâm anh tại lộ quần
Dịch nghĩa:
Tặng Thiền Sư Quảng Trí
Chống gậy Thiền trên núi
cao, rũ sạch bụi trần,
Lặng lẽ trong cảnh mộng ảo, chỉ hỏi áng mây nổi;
Tôi đây
rất thiết tha, nhưng không cách nào theo học được Trừng, Thập,
Vì đã trót vướng
trâm anh trong bày cò.
Dịch thơ:
I
Chống gậy non cao rũ bụi đời,
Nằm trong mộng huyễn
ngắm mây trôi;
Ân cần khôn cách theo Trừng, Thập,
Trót vướng bày cò lớp mũ
đai.
Đỗ Quang Liên
II
Trụ non cao, rũ bụi đời,
Giữa mộng ảo, ngắm mây trôi – sạch
lòng;
Muốn theo Trừng, Thập vô cùng,
Mũ đai đã trót vướng trong bày cò.
Đỗ
Quang Liên
Chú thích:
Văn Khâm từng làm Thương Thư bộ Công, triều vua
Lý Nhân Tông (1072-1128).
Lục Trần: còn gọi là lục tặc gồm Sắc, Thanh, Hương, Vị,
Xúc, Pháp là những thứ mê hoặc người đời.
Trừng, Thập: Phật Đồ Trừng và Cưu Ma
La Thập là hai vị sư nổi tiếng người Thiên Trúc, đến Trung Quốc vào thời Hậu Tấn.
Bày cò: chỉ các quan. Sách Bác Vật ghi chép: giống cò bay có thứ tự, con nhỏ
không vượt con lớn.
No comments:
Post a Comment