Mar 31, 2014

Đề huyền thiên quán

Tác giả: Trần Nguyên Đán 陳元旦
題玄天觀
白日升天易
致君堯舜難
塵埃六十載
回首愧黃冠

Bạch nhật thăng thiên dị 
Trí quân nghiêu thuấn nan 
Trần ai lục thập tải 
Hồi thủ quý hoàng quan

Dịch nghĩa: 
Đề quán Huyền Thiên 
Ban ngày bay lên trời còn dễ, 
Giúp vua để vua được như Nghiêu, Thuấn thật là khó; 
Sáu mươi năm mưu toan ở cõi trần, 
Ngoảnh lại luống thẹn với người đội mũ vàng.

Dịch thơ: 
Lên trời ngày khá dễ, 
Giúp vua khó vô ngần; 
Sáu chục năm trần thế, 
Thẹn nhìn mũ Đạo nhân. 
                       Nguyễn Chân 

II 
Ban ngày bay dễ lên trời, 
Giúp vua khó được như đời Thuấn Nghiêu; 
Tuổi đời sáu chục, xế chiều, 
Ngoái nhìn Đạo sỹ, bao nhiêu thẹn thùng. 
                                               Đỗ Quang Liên 


Chú thích: Mũ của Đạo sỹ, chỉ người ở ẩn.




Mar 29, 2014

Thư hoài kỳ nhị

Tác giả: Lê Quát 黎适
書懷其二
年來世事與心違
日望家山賦式微
水國天寒驚歲暮
木蘭花老雨霏霏

Niên lai thế sự dữ tâm vi 
Nhật vọng gia sơn phú thức vi 
Thuỷ quốc thiên hàn kinh tuế mộ 
Mộc lan hoa lão vũ phi phi

Dịch nghĩa: 
Nỗi lòng (bài 2) 
Mấy năm nay, việc đời trái với lòng, 
Ngày ngày trông về quê hương, đọc thơ Thức vi; 
Nơi sông nước, trời trở lạnh, giật mình năm sắp hết, 
Hoa mộc lan tàn héo dưới mưa bay.

Dịch thơ: 
Đỗ Quang Liên 

Việc đời thường trái ý lâu nay, 
Trông ngóng quê hương lạnh tháng ngày; 
Trời rét, giật mình, năm sắp hết, 
Mộc lan tàn héo dưới mưa bay. 

II 
Việc đời trái ý bấy nay, 
Trông về núi cũ, mong ngày lại quê; 
Hết năm, trời nước tái tê, 
Mộc lan tàn rũ lê thê mưa buồn.


Chú thích: 
Thức vi: Tên một bài thơ trong thiên Quốc Phong,  Kinh Thi nói lên tâm trạng người lưu lạc, chỉ muốn về quê nhà.






Mar 28, 2014

265. Thư hoài kỳ nhất

Tác giả: Lê Quát 黎适
書懷其一
事務如毛病復閒
乾坤萬變靜中看
雙梅橋畔秋風老
無數黃花映藥欗

Sự vụ như mao bệnh phục nhàn 
Càn khôn vạn biến tĩnh trung khan 
Song mai kiều bạn thu phong lão 
Vô số hoàng hoa ánh dược lan

Dịch nghĩa: 
Nỗi lòng (bài 1) 
Công việc bộn bề, ốm thành ra nhàn, 
Trong yên tĩnh, ngồi nhìn biến đổi của trời đất; 
Bên cầu Song Mai, gió cuối thu, 
Mầu vàng của vô số hoa cúc ánh vào lan can.

Dịch thơ: 
Đỗ Quang Liên 

Bộn bề công việc, ốm thành nhàn, 
Trời đất đổi thay, tĩnh lặng xem; 
Thu muộn, Song Mai cầu gió lộng, 
Màu vàng hoa cúc ánh lan can. 

II 
Việc bừa bộn, ốm được nhàn, 
Đất trời muôn vẻ, lặng xem đổi dời; 
Cuối thu, gió lộng Song Mai, 
Bao nhiêu hoa cúc ánh ngoài giậu bên.







Mar 27, 2014

Tống phạm công sư mạnh bắc sứ

Tác giả: Lê Quát 黎适
送范公師孟北使
驛路三千君據安
海門十二我還山
朝中使者天邊客
君得功名我得閒

Dịch lộ tam thiên quân cứ an 
Hải môn thập nhị ngã hoàn san 
Triều trung sứ giả, thiên biên khách 
Quân đắc công danh ngã đắc nhàn

Dịch nghĩa: 
Tiễn Phạm Sư Mạnh đi sức phương Bắc 
Qua ba nghìn dặm đường đi sứ, bác ngồi trên yên,
Vượt mười hai cửa biển, tôi trở về núi;
Kẻ sứ giả của triều đình, kẻ nơi chân trời,
Bác được công danh, tôi được chữ nhàn.

Dịch thơ: 
Người tựa trên yên trải dặm ngàn, 
Kẻ về cửa bể cách quan san; 
Sứ thần, dật khách nào hơn kém, 
Ông được công danh, lão được nhàn. 
                                       Đinh Văn Chấp 

II 
Ba ngàn dặm ngựa, bác đi, 
Mười hai cửa biển, tôi về núi sâu; 
Bác Sứ giả, tôi khách du, 
Bác theo sự nghiệp, tôi ưa thanh nhàn. 
                                                 Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
- Lê Quát, tự là Bá Quát, hiệu Mai Phong,  dòng dõi Lê Văn Thịnh, người huyện Đông Sơn (phía Tây Bắc thành phố Thanh Hóa ngày nay, là một học trò xuất sắc của Chu An, đỗ Thái học sinh, làm quan dưới triều vua Trần Minh Tông. Triều vua Trần Dụ Tông (1358) làm Tả tư lang kiêm Hàn lâm viện phụng chỉ, sau thăng làm Thượng thư Hữu bộc xạ. Năm 1366, ông đi kiểm tra sổ sách tài chính ở Thanh Hoá, và được thăng chức Thượng thư Hữu bật nhập nội hành khiển. Lê Quát nổi tiếng văn chương, cùng Phạm Sư Mạnh muốn thay đổi không khí học thuật đương thời, bằng cách đề cao đạo Nho, bài xích đạo Phật. 
- Theo Đại Việt sử ký toàn thư, bài thơ này Lê Quát làm khi còn trẻ.






Mar 26, 2014

Quá an phủ nguyễn sĩ cố phần

Tác giả: Phạm Sư Mạnh 范師孟

過安撫阮士固墳
蕭蕭千畝竹如雲
無限傷心安撫墳
山墅昔時攜酒地
愴忙下馬正斜曛

Tiêu tiêu thiên mẫu trúc như vân 
Vô hạn thương tâm an phủ phần 
Sơn thự tích thời huề tửu địa 
Thương mang há mã chính tà huân

Dịch nghĩa: 
Qua mộ An Phủ Nguyễn Sĩ Cố 
Hiu hắt hàng nghìn mẫu, trúc như mây,
Trước mồ quan An Phủ, lòng đau vô hạn;
Biệt thự trong núi, nơi trước kia thường mang rượu đến,
Nay bâng khuâng xuống ngựa, giữa lúc bóng chiều tà.

Dịch thơ: 
Mây giăng ngàn dặm trúc xanh xanh,
An phủ phần, trông vướng mối tình;
Này chốn ngày xưa vui vẻ chén,
Bâng khuâng xuống ngựa, bóng chênh chênh. 
                                                        Đinh Văn Chấp 

II 
Như mây, trúc rợp mênh mông, 
Trước mồ hiu hắt, tấc lòng sầu đau; 
Tiệc say nhà núi nay đâu? 
Bâng khuâng xuống ngựa, bóng chiều chênh chênh! 
                                                                  Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
Nguyễn Sĩ Cố: chưa rõ người ở đâu. Theo Đại Việt Sử Ký toàn thư, ông làm chức Thiên Chương Các học sỹ đời vua Trần Thánh Tông (1258-1278), rồi chức Hàn Lâm viện thị độc học sỹ đời vua Trần Minh Tông (1314-1329).






Mar 24, 2014

Chu trung tức sự

Tác giả: Phạm Sư Mạnh 范師孟
舟中即事
仕宦三朝備省官
蒼頭白髮未還山
焚香坐對珥河月
惆悵煙溪峽石間

Sĩ hoạn tam triều bị tỉnh quan 
Thương đầu bạch phát vị hoàn san 
Phần hương tọa đối nhị hà nguyệt 
Trù trướng yên khê hiệp thạch gian

Dịch nghĩa:
Thơ tức sự trên thuyền 
Làm quan nơi cung cấm trải suốt ba triều vua, 
Đầu xanh đã bạc, chưa được về núi; 
Đốt hương ngồi ngắm trăng giòng sông Nhị, 
Bồi hồi tưởng nhớ đến suối mây vùng Hiệp Thạch.

Dịch thơ: 
Cung cấm ba triều vẫn cảnh quan, 
Đầu xanh đã bạc chửa hoàn san; 
Đốt hương ngồi ngắm trăng sông Nhị, 
Mây nước quê nhà những vẫn vương. 
                                             Trần Lê Sáng 

II 
Ba triều trải đủ chức quan, 
Đầu xanh, tóc bạc hưu nhàn được đâu; 
Châm hương ngồi ngắm trăng thâu, 
Nhị Hà – Hiệp Thạch thấm sầu nỗi quê. 
                                                 Đỗ Quang Liên
   



Mar 21, 2014

Đề cam lộ tự

Tác giả:  Phạm Sư Mạnh 范師孟
題甘露寺
曉躡雲煙扣石
僧房佛舍俯漣漪
雪侵兩鬢風吹淚
重讀穆陵題寺詩

Hiểu nhiếp vân yên khấu thạch phi 
Tăng phòng phật xá phủ liên y 
Tuyết xâm lưỡng mấn phong suy lệ 
Trùng độc mục lăng đề tự thi

Dịch nghĩa: 
Đề chùa Cam Lộ 
Buổi sớm dẫm lên khói mây, gõ vào cửa đá,
Tăng phòng, Phật điện nhìn xuống giòng nước lăn tăn;
Tuyết điểm bạc hai bên mái tóc, gió thổi rơi lệ,
Đọc lại bài thơ của Mục Lăng đề ở chùa.

Dịch thơ: 
Rẽ đám mây mù gõ trước rèm,
Buồng Tăng, nhà Phật nước quanh thềm;
Gió lay giọt lệ sương pha tóc,
Thơ Mục Lăng xưa lại đọc lên. 
                                       Đinh Văn Chấp 

II 
Rẽ khói mây, gõ cửa chùa, 
Phật đàn soi xuống nước hồ lăn tăn; 
Tóc sương, gió thổi lệ tràn, 
Đọc thơ xưa đức Mục Lăng đề chùa.
                                          Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
Hoàng Việt thi tuyển chú: vua Trần Minh Tông chôn ở Mục Lăng.




Mar 20, 2014

260. Quá tiêu tương

Tác giả: Phạm Sư Mạnh 范師孟
過瀟湘
湘水北連青草湖
年年楓葉映菰蒲
帝妃一去殿門閉
紅日下山啼鷓鴣

Tương thuỷ bắc liên thanh thảo hồ
Niên niên phong diệp ánh cô bồ
Đế phi nhất khứ điện môn bế
Hồng nhật há sơn đề giá cô

Dịch nghĩa: 
Qua Tiêu Tương 
Sông Tương phía bắc liền với hồ Thanh Thảo,
Hàng năm lá phong soi xuống cỏ cô, cỏ bồ;
Bà Phi qua đời, cửa điện bèn khép lại,
Mặt trời gác núi, tiếng chim đa đa kêu rộn.

Dịch thơ: 
I
Tiêu Tương, Thanh Thảo giáp đôi bờ,
Thu tới phong soi sáng cỏ bồ;
Đế phi khuất bóng, cung không mở,
Ác lặn, vang non tiếng giá cô. 
                                          Đào Thái Tôn 

II 
Sông Tương giáp Thanh Thảo hồ, 
Lá phong rụng sáng cỏ bồ hằng năm; 
Vắng Phi, cửa điện im lìm, 
Đa đa rộn tiéng kêu buồn chiều hôm. 
                                                     Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
- Tiêu Tương: nơi hợp lưu của sông Tiêu và sông Tương, ở phía Bắc huyện Linh Lăng, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Phạm Sư Mạnh làm thơ này khi đi sứ năm 1345. 
- Hồ Thanh Thảo: ở huyện Cương Âm, tỉnh Hồ Nam; Phía Nam giáp sông Tiêu, Bắc thông với hồ Động Đình. Vì hồ có nhiều cỏ xanh nên đặt tên như vậy. 
- Đế Phi: tương truyền Nga Hoàng và Nữ Anh là con gái vua Nghiêu, và đều là vợ vua Thuấn. Khi vua Thuấn chết, hai bà khóc thương ở vùng sông Tiêu Tương.




Mar 19, 2014

Quá hoàng long động

Tác giả: Phạm Sư Mạnh  范師孟
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

過黃龍洞
鴉浦潮頭蛺石風
高帆十丈過黃龍
溶溶一水玻璃碧
玉立千峰更萬峰

Nha phố triều đầu hiệp thạch phong 
Cao phàm thập trượng quá hoàng long 
Dung dung nhất thuỷ pha lê bích
Ngọc lập thiên phong cánh vạn phong

Dịch nghĩa: 
Qua động Hoàng Long 
Trên làn sóng Nha Phố, trước ngọn gió Hiệp Thạch, 
Buồm cao mười trượng qua động Hoàng Long;
Mênh mông bát ngát trong biếc như pha lê,
Muôn ngàn ngọn núi đứng sừng sững như những viên ngọc.

Dịch thơ: 
Nha Phố triều lên, gió Hiệp Thạch, 
Buồm cao mười trượng vượt Hoàng Long; 
Mênh mông bát ngát pha lê biếc, 
Ngọc dựng muôn ngàn ngọn núi non. 

II 
Gió Hiệp Thạch, triều bến Nha, 
Cánh muồm cao vút vượt qua động Hoàng; 
Nước trong xanh biếc mênh mang, 
Như hàng ngọc dựng trùng trùng núi non.



Chú thích: Hiệp Thạch thuộc huyện Hiệp Sơn, phủ Kinh Môn, đất Hải Dương.




Mar 18, 2014

Đông Sơn tự hồ thượng lâu

Tác giả: Phạm Sư Mạnh 范師孟 
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

東山寺湖上樓
池園古寺瓊瑤沒
松竹一山風雨來
至今白髮村前叟
猶道太師平賊回

Trì viên cổ tự quỳnh dao một 
Tùng trúc nhất sơn phong vũ lai 
Chí kim bạch phát ngôn tiền tẩu 
Do đạo thái sư bình tặc hồi

Dịch nghĩa: 
Lầu trên hồ chùa Đông Sơn 
Vườn ao chùa cổ đã mất vẻ ngọc rồi,
Thông trúc đầy núi, gió mưa kéo đến;
Đến nay những ông già tóc bạc ở trước thôn,
Còn kể chuyện Thái Sư đi dẹp giặc về qua đây.

Dịch thơ: 
Chùa cổ, ao vườn đâu vẻ ngọc, 
Trúc tùng rậm núi, gió mưa sa; 
Đến nay bô lão thôn còn kể, 
Chuyện cũ Thái Sư dẹp giặc qua. 

II 
Vườn, ao, chùa – vẻ đẹp đâu, 
Thông, tre đầy núi mặc dầu gió mưa; 
Già làng thường kể chuyện xưa, 
Thái Sư dẹp giặc về qua lối này.



Chú thích: 
Việt âm thi tập chú: Thái Sư ở đây chỉ Trần Nhật Duật, con thứ sáu vua Trần Thái Tông, văn võ kiêm toàn. Ông có công lớn trong cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông, được phong Tá Thánh Thái Sư Chiêu Văn Vương, thọ 77 tuổi. Người đương thời ví như Quách Tử Nghi đời Đường bên Trung Quốc.





Mar 17, 2014

Thanh lương giang

Tác giả: Chu Văn An 朱文安
清涼江
山腰一抹夕陽橫
兩兩漁舟畔岸行
獨立清涼江上望
寒風颯颯嫩潮生

Sơn yêu nhất mạt tịch dương hoành
Lưỡng lưỡng ngư chu bạn ngạn hành
Độc lập thanh lương giang thượng vọng
Hàn phong táp táp nộn triều sinh

Dịch nghĩa: 
Sông Thanh Lương 
Một vệt bóng chiều vắt ngang sườn núi,
Dọc theo bờ sông, thuyền câu đi từng đôi một;
Đứng một mình trên sông Thanh Lương ngắm cảnh,
Gió lạnh vi vút, nước triều dâng lên.

Dịch thơ: 
I
Sườn non một vệt nắng vắt ngang,
Xuôi mái thuyền câu thẳng thẳng hàng;
Thanh Lương sông vắng người thơ thẩn,
Sóng nổi hun hun trận gió hàn. 
                                            Trần Lê Sáng 

II 
Sườn non in vệt nắng chiều, 
Gần bờ, từng cặp thuyền câu xuôi dòng; 
Một mình, sông vắng Thanh Lương, 
Vèo vèo gió lạnh, triều dâng từ từ. 
                                              Đỗ Quang Liên  


Chú thích: 
Câu 4 “Nộn triều sinh”, trong sách Trích diễm thi tập ghi là “vãn triều sinh” nghĩa là Thủy triều buổi chiều dâng lên.





Mar 14, 2014

Cung hoạ ngự chế động chương

Tác giả: Chu Văn An 朱文安
恭和御制洞章
庭舞胎禽雲掩關
露華嚥罷覺清寬
碧桃華下渾無事
時倩東風掃石壇

Đình vũ thai cầm vân yểm quan
Lộ hoa yến bãi giác thanh khoan
Bích đào hoa hạ hồn vô sự
Thời thiến đông phong tảo thạch đàn

Dịch nghĩa: 
Kính họa thơ vua 
Hạc múa ở sân, mây che ngoài cửa,
Nuốt hoa sương rồi cảm thấy khoan khoái nhẹ nhàng;
Dưới hoa bích đào, lòng thanh thản,
Thỉnh thoảng mượn ngọn gió đông quét trên đàn đá.

Dịch thơ: 
Hạc múa ngoài sân, mây cửa lồng,
Sương hoa uống cạn, thảnh thơi lòng;
Dưới hoa đào dạo, hồn thanh thản,
Quét thạch đàn, ta mượn gió đông. 
Trần Lê Sáng 

II 
Cửa mây, hạc múa ngoài sân, 
Hoa sương uống cạn, tâm thần thảnh thơi; 
Dưới đào, thanh thản dạo chơi, 
Gió Đông tạm mượn, quét nơi thạch đàn. 
                                                     Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Câu 4 “thời thiến”, sách Toàn Việt thi lục chép là “thời trị” có nghĩa là Gặp lúc. 
- Động chương: chưa rõ nghĩa, cần tra cứu thêm.



Mar 13, 2014

255. Thôn nam sơn tiểu khế

Tác giả: Chu Văn An 朱文安
村南山小憩
閑身南北片雲輕
半枕清風世外情
佛界清幽塵界遠
庭前噴血一鶯鳴

Nhàn thân nam bắc phiến vân khinh 
Bán chẩm thanh phong thế ngoại tình 
Phật giới thanh u trần giới viễn 
Đình tiền phún huyết nhất oanh minh

Dịch nghĩa: 
Tạm nghỉ ở núi Thôn Nam 
Thân nhàn như đám mây nhẹ bay khắp Nam, Bắc,
Gió mát thổi bên gối, tâm tình để ngoài cuộc đời;
Cõi Phật thanh u, cõi trần xa vời,
Trước sân, hoa đỏ như máu, một chiếc oanh kêu.

Dịch thơ: 
Nam Bắc mây trôi, thân nhẹ tênh, 
Gió lùa bên gối, việc đời khinh; 
Phật gần, cõi thế dường xa lắc, 
Hoa đỏ ngoài sân một tiếng oanh. 
                                      Đỗ Quang Liên 

II
Thân nhàn tựa áng mây trôi, 
Gió trăng nửa gối, việc đời nhẹ tênh; 
Cõi trần xa, cõi Phật thanh, 
Sân hoa máu đỏ, chim oanh líu lường. 
                                                Đào Thái Tôn





Mar 12, 2014

Linh sơn tạp hứng

Tác giả: Chu Văn An 朱文安
靈山雜興
萬疊青山簇畫屏
斜陽淡抹半溪明
翠蘿徑裏無人到
山鵲啼煙時一聲

Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình
Tà dương đạm mạt bán khê minh
Thuý la kính lý vô nhân đáo
Sơn thước đề yên thời nhất thanh

Dịch nghĩa: 
Tạp hứng ở Linh sơn 
Muốn lớp núi xanh tụ lại như bức bình phong vẽ, 
Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe; 
Trong lối cỏ biếc, không người đến, 
Thỉnh thoảng một tiếng chim thước kêu trong khói mù.

Dịch thơ: 
I
Núi xanh muôn lớp họa bình che, 
Ác xế soi lên rạng nửa khe; 
Bụi rậm đường sâu người vắng vẻ, 
Trong mây chim thước gọi le the. 
                   Bản dịch Hoàng Việt thi văn tuyển 

II 
Họa bình, muôn lớp núi xanh, 
Nửa dòng khe sáng chênh chênh ánh tà; 
Lối mòn, không kẻ lại qua, 
Khói vương, thảng thốt một và tiếng chim. 
                                                         Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
- Câu 2 “”đạm mạt” có sách ghi là “quải đảo” nghĩa là treo ngược. 
- Chu Văn An (?-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt, tên thụy là Văn Trinh, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm, nay là huyện Thanh Trì, Hà Nội. Sau khi đậu Thái học sinh, ông ở nhà dạy học. Đời vua Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp, dạy cho thái tử. Ðời vua Trần Dụ Tông (1341-1369), Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy nịnh thần, vua không nghe. Ông từ chức, ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Ðặc, huyện Chí Linh. 
Tác phẩm: Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước. Nhưng chỉ còn 12 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.




Mar 11, 2014

Đề cố bộ hạc đồ

Tác giả: Nguyễn Ức 阮億
題顧步鶴圖
一堆老石竹參差
孤鶴便翾未肯飛
回首不須防在後
網羅正是眼前機

Nhất đôi lão thạch trúc sâm si
Cô hạc biền huyên vị khẳng phi
Hồi thủ bất tu phòng tại hậu
Võng la chính thị nhãn tiền ky

Dịch nghĩa: 
Đề tranh "Cố bộ hạc"
Một đống đá cũ, khóm trúc loi thoi,
Con hạc cô đơn dùng dằng chưa chịu bay;
Đừng ngoảnh đầu lại đề phòng đằng sau,
Lưới giăng chính là cơ sự đã ở ngay trước mắt.

Dịch thơ: 
Khóm trúc loi thoi, đá mấp mô,
Dùng dằng cánh hạc, thế đơn cô;
Thôi đừng ngoảnh lại đằng sau nữa,
Lưới trước chờ kia chẳng phải dò!
                                           Tuấn Nghi 

II 
Trúc loi thoi, đá mấp mô, 
Chưa bay, cánh hạc thế cô ngập ngừng; 
Ngoảnh nhìn sau cũng chẳng bằng,
Đề phòng trước mắt lưới giăng sẵn chờ.
                                                    Đỗ Quang Liên

Chú thích:  
Cố bộ hạc đồ: Bức tranh vẽ con hạc vừa đi vừa ngoảnh lại




Mar 10, 2014

Tống nhân bắc hành

Tác giả: Nguyễn Ức 阮億
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

送人北行
都門回首樹蒼蒼
立馬頻斟勸客觴
一段離情禁不得
津頭折柳又斜陽

Ðô môn hồi thủ thụ thương thương
Lập mã tần châm khuyến khách trường
Nhất đoạn ly tình câm bất đắc
Tân đầu chiết liễu hựu tà dương

Dịch nghĩa: 
Tiễn người đi phương Bắc 
Ngoảnh lại cửa đô thành cây cối xanh xanh,
Dừng ngựa liên tiếp rót rượu mời khách;
Không sao ngăn nổi, một khúc tình ly biệt,
Bên bến sông bẻ cành liễu trong bóng chiều tà.

Dịch thơ: 
Cổng thành ngoái lại lá xanh tươi, 
Dừng ngựa kèo thêm chén rượu mời; 
Tình cảm biệt ly kìm chẳng nổi, 
Bên cầu bẻ liễu ánh chiều vơi… 

II 
Cổng thành ngoái ngắm cây xanh, 
Dừng cương rót rượu nài anh chén mời; 
Khôn ngăn tình lụy chia phôi, 
Bến sông bẻ liễu vơi vơi ánh tà.


Chú thích: 
Người đời Hán thường bẻ cành liễu bên cầu Bá Kiều ở Đông Trường An khi tiễn nhau (ý để làm roi ngựa).





Mar 7, 2014

Trai tiền bồn tử lan hoa

Tác giả: Nguyễn Ức 阮億
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

齋前盆子蘭花
高標曾識楚辭中
一種風光九畹同
天似有情憐寂寞
為留清馥伴吟翁

Cao tiêu tằng thức sở từ trung 
Nhất chủng phong quang cửu uyển đồng 
Thiên tự hữu tình liên tịch mịch 
Vị lưu thanh phức bạn ngâm ông 

Dịch nghĩa: 
Chậu hoa lan trước nhà 
Từng biết được nêu cao trong Sở từ,
Một vẻ phong quang chín khoảnh đất đều giống nhau; 
Trời hình như có ý thương cảnh vắng vẻ,
Đã để lại mùi thơm trong sạch làm bạn với nhà thơ.

Dịch thơ: 
Sở từ từng biết được đề cao, 
Chín khoảnh phong quang cũng giống nhau; 
Vắng vẻ, trời thương, dành để lại, 
Hương thơm làm bạn khách thanh tao. 

II 
Sở từ từng đã đề cao, 
Cùng loài chín khoảnh tươi màu phong quang; 
Quạnh hiu, trời rủ lòng thương, 
Lưu hương thơm ngát bạn cùng khách thơ.


Chú thích: 
- Sở từ: ở đây chỉ thơ của Khuất Nguyên nói chung. 
- Chín khoảnh đất (cửu uyển): trong Ly Tao của Khuất Nguyên có câu: “Dư ký tư lan chi cửu uyển hề, hựu thụ huệ chi bách mẫu” nghĩa là Ta đã trồng lan chín khoảnh, lại trồng huệ trăm mẫu.



Mar 6, 2014

250. Trùng dương tiền nhất nhật đáo cúc đường cựu cư hữu cảm

Tác giả: Nguyễn Ức 阮億
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên


重陽前一日到菊堂舊居有感
高會龍山蹟已陳
西風回首淚沾巾
貞心卻愛東籬菊
肯把清香媚別人

Cao hội long sơn tích dĩ trần
Tây phong hồi thủ lệ triêm cân
Trinh tâm khước ái đông ly cúc
Khẳng bả thanh hương mị biệt nhân

Dịch nghĩa: 
Cảm xúc khi đến ngôi nhà cũ của Cúc Đường vào ngày trước Tết Trùng Dương 
Cuộc yến hội ở Long Sơn dấu vết đã mờ,
Gió tây thổi ngoảnh đầu lại, nước mắt thấm khăn;
Lòng trong trắng chỉ yêu hoa cúc ở giậu phía đông,
Há chịu đem hương, thanh mơn trớn kẻ khác.

Dịch thơ: 
Yến hội Long Sơn dấu đã phai, 
Quay đầu, gió lộng, lệ tuôn dài; 
Tấm trinh mến cúc bên Đông giậu, 
Há chịu hương thanh mơn trớn ai. 

II 
Hội Long Sơn dấu đã mờ, 
Ngoái nhìn gió nổi, lệ nhòa thấm khắn; 
Riêng yêu tình cúc trắng trong, 
Chẳng đem hương quý ướp nồng duyên ai.  


Chú thích: 
- Cúc Đường: tên hiệu của Trần Quang Triều. 
- Tấn thư chép: Ngày 9 tháng 9, tướng quân Hoàn Ôn đặt tiệc ở Long Sơn, thuộc hạ và tân khách đến dự. Có thể Nguyễn Ức nhắc tới một cuộc yến hội lớn nào đó do Quang Triều sinh thời tổ chức. 
- Hoa cúc ở giậu Đông (Đông ly cúc): chữ trong thơ Đào Tiềm, dùng tại đây với nghĩa muốn quay về với thú điền viên.




Mar 5, 2014

Động nhiên phong hữu cảm

Tác giả: Nguyễn Ức 阮億
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên


洞然峰有感
高臥蒼雲念最深
騎箕去後杳難尋
君王無復他時夢
猿鶴空山夜夜心

Cao ngọa thương vân niệm tối thâm
Kỵ cơ khứ hậu liểu nan tầm
Quân vương vô phục tha thời mộng
Viên hạc không sơn dạ dạ tâm

Dịch nghĩa: 
Cảm xúc khi qua đỉnh Động Nhiên
Nằm cao tận mây xanh, nghĩ rất sâu,
Người cưỡi sao Cơ đi rồi, mờ mịt thật khó tìm;
Giấc mộng nhà vua ngày nào, nay không còn trở lại,
Trên ngọn núi vắng, đêm đêm chỉ còn tấm lòng của vượn, hạc mà thôi.

Dịch thơ: 
Mây thẳm nằm cao, nghĩ rất sâu, 
Sao Cơ người cưỡi, biết tìm đâu? 
Nhà vua mộng cũ sao quay lại, 
Núi vắng, đêm đêm vượn, hạc sầu. 

II 
Nằm cao mây thẳm, nghĩ sâu, 
Sao Cơ người cưỡi, biết đâu mà dò; 
Đâu còn mộng cũ nhà vua, 
Núi không, vượn hạc đêm đêm những buồn. 


Chú thích: 
- Người cưỡi sao Cơ: Sách Trang Tử chép: Phó Duyệt, hiền thần đời Thương, tuy chết nhưng tinh thần vẫn ngời sáng trên sao Cơ, sao Vĩ. 
- Vượn, hạc (viên hạc): sách Bão Phác tử chép: “Chu Mục Vương Nam chinh nhất quân tận hóa quân tử vi viên vi hạc tiểu nhân vi trùng vi sa” nghĩa là Chu Mục Vương đánh phương Nam, toàn quân đều chết cả. Những người quân tử thì biến thành vượn, hạc; những kẻ tiểu nhân thì biến thành sâu, thành cát.