靈山雜興
萬疊青山簇畫屏
斜陽淡抹半溪明
翠蘿徑裏無人到
山鵲啼煙時一聲
Vạn điệp thanh sơn thốc họa bình
Tà dương đạm mạt bán khê
minh
Thuý la kính lý vô nhân đáo
Sơn thước đề yên thời nhất thanh
Dịch nghĩa:
Tạp hứng ở Linh sơn
Muốn lớp núi xanh tụ lại như
bức bình phong vẽ,
Bóng chiều nhạt dọi tới sáng nửa lòng khe;
Trong lối cỏ biếc,
không người đến,
Thỉnh thoảng một tiếng chim thước kêu trong khói mù.
Dịch thơ:
I
Núi xanh muôn lớp họa bình che,
Ác xế soi lên rạng
nửa khe;
Bụi rậm đường sâu người vắng vẻ,
Trong mây chim thước gọi le the.
Bản
dịch Hoàng Việt thi văn tuyển
II
Họa bình, muôn lớp núi xanh,
Nửa dòng khe sáng
chênh chênh ánh tà;
Lối mòn, không kẻ lại qua,
Khói vương, thảng thốt một và tiếng
chim.
Đỗ Quang Liên
Chú thích:
- Câu 2 “”đạm mạt” có sách ghi là “quải đảo” nghĩa
là treo ngược.
- Chu Văn An (?-1370) hiệu là Tiều Ẩn, tên chữ là Linh Triệt,
tên thụy là Văn Trinh, người làng Văn Thôn, xã Quang Liệt, huyện Thanh Ðàm, nay
là huyện Thanh Trì, Hà Nội. Sau khi đậu Thái học sinh, ông ở nhà dạy học. Đời vua
Trần Minh Tông ông mới nhận chức Quốc Tử Giám Tư nghiệp, dạy cho thái tử. Ðời vua
Trần Dụ Tông (1341-1369), Chu Văn An dâng sớ xin chém bảy nịnh thần, vua không
nghe. Ông từ chức, ở ẩn tại núi Phượng Hoàng, làng Kiệt Ðặc, huyện Chí Linh.
Tác
phẩm: Tiều ẩn thi tập, Tiều ẩn quốc ngữ thi tập, Tứ thư thuyết ước. Nhưng chỉ
còn 12 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.
No comments:
Post a Comment