Mar 3, 2014

Điếu đài

Tác giả: Nguyễn Ức 阮億
釣臺
漢鼎鹽梅一縷輕
桐江風月有餘清
羊裘物色無逃處
惹得人間萬古名

Hán đỉnh diêm mai nhất lũ khinh
Đồng giang phong nguyệt hữu dư thanh
Dương cừu vật sắc vô đào xứ
Nhạ đắc nhân gian vạn cổ danh

Dịch nghĩa: 
Chòi câu
Vạc nhà Hán và chuyện muối mơ xem nhẹ hơn một sợi dây, 
Trăng gió trên Đồng Giang thừa sự thanh cao;
Chiếc áo da cừu bị tìm vời không còn nơi lẩn tránh,
Nên buộc phải lưu lại thanh danh muôn thuở ở đời.

Dịch thơ: 
"Muối mơ vạc Hán" nhẹ dường tơ,
Trăng gió Đồng Giang sảng khoái thừa;
Chiếc áo da cừu khôn lẩn tránh,
Đành lưu danh lại với ngàn xưa.
                                   Đào Phương Bình 

II
“Muối mơ, vạc Hán” nhẹ tênh, 
Đồng Giang trăng gió thanh cao có thừa; 
Áo cừu khó tránh – bực chưa, 
Đành lưu danh với ngàn xưa giữa đời. 
Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Chòi câu (điếu đài): chỉ chòi câu của Nghiêm Quang (Nghiêm Tử Lăng), một ẩn sỹ đời Hán trên sông Đồng Giang, dưới núi Phú Xuân, tỉnh Triết Giang, Trung Quốc. 
- Theo thiên Duyệt Mệnh trong Kinh Thư thì vào đời Thương, vua Cao Tông nói với hiền thần Phó Duyệt rằng: “Nhược tác hòa canh, nhĩ duy diêm mai”, nghĩa là: nếu để nêm canh, ngươi chính là muối và mơ. 
- Áo da cừu (dương cừu): ngày xưa, người làm quan thường mặc áo da cừu. Bị tìm vời (vật sắc): truyện Nghiêm Quang trong sách Hán thư chép: “Nãi lệnh dĩ vật sắc phỏng chi”, nghĩa là Bèn ra lệnh theo dung mạo mà tìm vời.





No comments:

Post a Comment