Feb 28, 2014

245. Tích xuân

Tác giả: Nguyễn Tử Thành 阮子成
惜春
老盡鶯聲蝶又殘
花神著意為人慳
清香不入荼蘼夢
九十春隨夜雨闌

Lão tận oanh thanh, điệp hựu tàn
Hoa thần trước ý vị nhân khan
Thanh hương bất nhập đồ mi mộng
Cửu thập xuân tùy dạ vũ lan

Dịch nghĩa: 
Tiếc xuân
Tiếng oanh vắng hẳn, bướm lại tàn,
Thần hoa có ý sẻn với người;
Hương thơm không còn len vào giấc mộng đẹp,
Chín chục ngày xuân mòn mỏi theo giọt mưa đêm.

Dịch thơ: 
Bướm, oanh sao nỡ chóng lìa tan, 
Con tạo ghen chi với thế gian; 
Giấc mộng đồ mi hương đã nhạt, 
Ngày xuân chín chục, giọt mưa tàn. 
                                              Tuấn Nghi 

II 
Giọng oanh khàn, cánh bướm phai, 
Thần hoa keo kiệt với người trần gian; 
Mộng đồ mi vắng mùi hương, 
Ngày xuân chín chục trôi cùng mưa đêm. 
                                                  Đỗ Quang Liên







Feb 26, 2014

Xuân nhật khê thượng vãn hành

Tác giả: Nguyễn Tử Thành 阮子成 
Dịch thơ:Đỗ Quang Liên

春日溪上晚行
春盡溪邊事事幽
輕紅滿地冷雲收
行行不覺天將晚
月在松梢水在頭

Xuân tận khê biên sự sự u
Khinh hồng mãn địa lãnh vân thu
Hành hành bất giác thiên tương vãn
Nguyệt tại tùng tiêu thuỷ tại đầu

Dịch nghĩa: 
Chiều xuân dạo bên bờ suối 
Mùa xuân đã đến tận bên suối, cảnh vật đều thanh u,
Màu hồng nhạt đầy mặt đất, mây lạnh tan hết;
Đi, đi mãi, bất giác trời sắp tối,
Trăng trên ngọn tùng, suối đầu nguồn.

Dịch thơ:
Thanh u tận suối đượm màu xuân,
Đầy đất hồng phai mây lạnh tan; 
Đi miết, không hay trời sắp tối, 
Ngọn thông trăng rãi, nước đầu nguồn. 

II 
Xuân về tận suối thanh u, 
Nhạt hồng đầy đất, vắng thưa mây trời; 
Cứ đi, bất giác tối rồi, 
Ngọn thông trăng rãi, nước nơi đầu nguồn.



Chú thích: 
Câu 3 có sách ghi là “…thiên tương hiểu” (không phải chữ Vãn)



Feb 25, 2014

Cố viên

Tác giả: Nguyễn Tử Thành 阮子成
西風冉冉鬢邊花
薄宦留人苦憶家
歸思正愁秋正好
一團寒露未開花

Tây phong nhiễm nhiễm mấn biên hoa
Bạc hoạn lưu nhân khổ ức gia
Quy tứ chính sầu thu chính hảo
Nhất đoàn hàn lộ vị khai hoa

Dịch nghĩa: 
Vườn xưa 
Gió tây lay động hoa bên mái tóc,
Chức quan bạc bẽo giữ người ta lại, khổ nỗi nhớ nhà;
Ý muốn về đang day dứt, mùa thu đang đẹp,
Một chòm móc lạnh trên nụ hoa chưa nở.

Dịch thơ: 
Gió tây dịch tóc lại bên hoa, 
Chức mọn giam chân, chỉ nhớ nhà; 
Khắc khoải mong về, thu đến đẹp, 
Nụ tầm xuân đón giọt sương sa. 
                                            Tuấn Nghi 

II 
Gió may vờn tóc bên hoa, 
Giam chân chức mọn, nhớ nhà miên man; 
Mong về khắc khoải, thu sang, 
Một chùm móc lạnh chưa tan trong ngần.
                                               Đỗ Quang Liên



Feb 24, 2014

U cư

Tác giả: Nguyễn Tử Thành 阮子成 
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên
幽居
砌纈苔壁縷蝸
東風不管長庭莎
日長睡起渾無事
閒看遊絲抱落花

Thế hiệt đài ban bích lũ oa
Đông phong bất quản trưởng đình sa
Nhật trường thuỵ khởi hồn vô sự
Nhàn khán du ti bão lạc hoa

Dịch nghĩa: 
Chỗ ở thanh u
Thềm rêu loang vách vết sên bò,
Gió xuân mặc sức cho cỏ trên sân lên tốt;
Ngày dài ngủ dậy, chẳng có việc gì làm,
Nhàn rỗi nhìn sợi tơ trời vương phải cánh hoa rơi.

Dịch thơ:
I
Thềm rêu, vách ngấn vệt sên dài,  
Gió mặc sân nhà cỏ mọc tươi; 
Ngủ dậy, ngày nhàn, ngồi lặng ngắm,
Tơ trời vướng vít cánh hoa rơi.

II 
Thềm rêu vách ngấn sên dây, 
Gió xuân bỏ mặc cỏ dầy góc sân; 
Ngày nhàn, ngủ dậy ngồi nhìn, 
Tơ trời vương cánh cánh hoa tàn bay bay. 


Chú thích: 
Tơ trời là một loại tơ do côn trùng nhả ra, bay trên không. Thẩm Ước có câu thơ: “Du ti ánh không chuyển”, nghĩa là Tơ trời lấp lánh bay trên không trung.


Feb 22, 2014

Tiếu đỗ vũ

Tác giả: Nguyễn Tử Thành 阮子成
誚杜宇
自古皆云蜀帝魂
巢居獨得眾禽尊
飛來只愛春山好
殿閣荒涼煙雨村

Tự cổ giai vân thục đế hồn
Sào cư độc đắc chúng cầm tôn
Phi lai chỉ ái xuân sơn hảo
Điện các hoang lương yên vũ thôn

Dịch nghĩa: 
Trách chim cuốc
Từ xưa đều nói là hồn Thục đế,
Loài ở tổ, riêng ngươi được các chim tôn trọng;
Bay tới, chỉ vì thích núi xuân đẹp,
Để điện các hoang lạnh, nơi khói mờ, mưa phủ.

Dịch thơ:
I
Xưa đồn Thục đế hoá thành mi,
Chim chóc, riêng mi được nể vì;
Núi đẹp xuân tươi mi thích chí,
Tiêu điều đất nước, có hay gì! 
                                         Hoàng Lê 

II 

Mang hồn vua Thục bao đời, 

Giống chim, mi được cả loài suy tôn; 
Về đây, vui cảnh núi non, 
Bỏ nơi điện các lạnh lùng khói mưa. 
                                                Đỗ Quang Liên




Chú thích: 
Hồn Thục Đế: Sách Thành Đô ký chép: “Đỗ Vũ tử, kỳ hồn hóa vi điểu, danh Đỗ Quyên”, nghĩa là Vua nước Thục Đế là Đỗ Vũ khi chết, hồn đã hóa thành chim, gọi là Đỗ Quyên.



Feb 21, 2014

240. Thu nhật ngẫu thành

Tác giả: Nguyễn Tử Thành 阮子成
秋日偶成
千村木葉盡黃落
獨立西風拂鬢絲
歲月堂堂留不得
昨非今是只心知

Thiên thôn mộc diệp tận hoàng lạc
Ðộc lập tây phong phất mấn ti
Tuế nguyệt đường đường lưu bất đắc
Tạc phi kim thị chỉ tâm tri

Dịch nghĩa:
Ngày thu ngẫu thành 
Lá cây ở ngàn thôn đều vàng rụng hết,
Đứng một mình, ngọn gió tây thổi bay tóc;
Năm tháng lừng lững trôi đi, không giữ được,
Trước sai, nay đúng, chỉ lòng mình biết.

Dịch thơ: 
Ngàn xóm muôn cây lá vàng rơi, 
Một mình gió lạnh thổi tơ mai;
Đường hoàng năm tháng trôi không giữ, 
Nay đúng, xưa sai, tự biết thôi. 
Hoàng Trung Thông 

II 
Lá vàng khắp xóm rụng đầy, 
Đứng mình, gió lạnh thổi bay mái đầu; 
Tháng ngày lừng lững trôi mau, 
Trước sai, nay đúng ai nào biết chăng. 
                                                  Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
Tử Thành, hiệu Tùng Hiên, người đời Trần, quê quán, năm sinh, năm mất, sự nghiệp đều chưa rõ. Hiện còn 11 bài thơ chép trong Việt thi lục.





Feb 20, 2014

Lâm chung thị ý

Tác giả: Phạm Mại 范邁 
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

臨終示意
自從謫落下人間
六十餘年一瞬看
白玉樓前秋夜月
朝真依舊徬欗杆

Tự tòng trích lạc hạ nhân gian
Lục thập dư niên nhất thuấn khan
Bạch ngọc lâu tiền thu dạ nguyệt
Triều chân y cựu bạng lan can

Dịch nghĩa: 
Bày tỏ ý nghĩ lúc sắp mất 
Từ khi bị đày xuống cõi trần,
Hơn sáu mươi năm, coi như một nháy mắt;
Dưới ánh trăng đêm thu trước lầu Bạch Ngọc,
Lên chầu trời, ta lại dựa vào lan can như cũ.

Dịch thơ: 
Từ khi đày xuống cõi trần gian,
Chớp mắt qua hơn sáu chục năm; 
Trăng sáng đêm thu lầu Bạch Ngọc, 
Chầu trời, ta lại dựa lan can. 

II 
Từ khi phải xuống trần gian, 
Sáu mươi năm – chớp mắt xem khác nào; 
Trước lầu Bạch Ngọc đêm thâu, 
Chầu trời, ta lại dựa vào lan can.



Chú thích: 
Đường thư ghi: Lý Hạ một hôm ban nngày có người mặc áo hồng, cầm chiếc thẻ bài, trên có viết: “Thượng đế hoàn thành lầu Bạch Ngọc, mời ông lên làm bài ký”, sau đó Lý Hạ chết. Ở đây, Phạm Mại mượn câu chuyện để giãi tỏ cảm xúc lúc lâm chung.






Feb 19, 2014

Nhàn cư đề thuỷ mặc trướng tử tiểu cảnh

Tác giả: Phạm Mại 范邁

閒居題水墨幛子小景
紅樹一溪流水
青山千里斜陽
欲喚扁舟歸去
此生未卜行藏

Hồng thụ nhất khê lưu thuỷ
Thanh sơn thiên lý tà dương
Dục hoán biển chu quy khứ
Thử sinh vị bốc hành tàng

Dịch nghĩa: 
Nhân lúc rỗi, đề vào bức tranh nhỏ trên tấm trướng thuỷ mặc 
Cây đỏ bên một giòng suối nước chảy,
Núi xanh trong nghìn dặm bóng chiều;
Muốn gọi chiếc thuyền để về,
Cuộc đời này chưa bói được lẽ "hành, tàng".

Dịch thơ: 
I
Lá thắm, một dòng suối chảy,
Non xanh, nghìn dặm bóng tà;
Muốn gọi con thuyền về ẩn, 
“Hành, tàng” ta bói chưa ra. 
                                 Tuấn Nghi 

II
Cây hồng, bên lạch nước trôi, 
Non xanh ngàn dặm, chiều vơi bóng tà; 
Thuyền con, muốn giục trở ra, 
Nên chăng ở ẩn, hay là làm quan! 
                                             Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Phạm Mại cũng thường gọi Phạm Tông Mại hiệu Kính Khê, anh em ruột với Phạm Ngộ. Tính tình thẳng thắn, đời làm quan từng nhiều phen bị giáng chức. Bắt đầu vào triều với chức Thị nội học sinh. Triều vua Trần Minh Tông (1314-1329), cùng Nguyễn Trung Ngạn đi sứ nhà Minh. Khi về giữ chức Ngự sử trung tán, rồi sau thăng lên chức Môn hạ sảnh đồng tri. 
- Lẽ Hành, Tàng: sách Luận Ngữ, thiên Thuật nhi có câu: 用之則行捨之則藏 (Dụng chi tắc hành, xả chi tắc tàng), nghĩa là: nếu dùng đến ta, ta sẽ hành đạo; nếu bỏ ta, ta sẽ về ở ẩn.





Feb 18, 2014

Du Phù Thạch nham kỳ tam

Tác giả: Phạm Ngộ
遊浮石岩其三
勝遊邂逅那可必
塵土重來又何日
悠悠身世倚欄杆
天外客帆歸鳥疾

Thắng du giải cấu na khả tất
Trần thổ trùng lai hựu hà nhật
Du du thân thế ỷ lan can
Thiên ngoại khách phàm quy điểu tật

Dịch nghĩa: 
Dạo chơi động Phù Thạch (bài 3)
Chuyện gặp gỡ giữa người và cảnh là tình cờ, nào có gì làm chắc,
Trong cõi đời cát bụi, biết có ngày nào còn trở lại đây chăng;
Thân thế mịt mù, tựa vào mái thuyền,
Buồm khách ngoài trời xa, chim về tổ vội vàng.

Dịch thơ: 
Gặp gỡ dễ đâu người với cảnh,
Cái duyên trùng phùng thường trở ngạnh;
Cuộc đời dằng dặc lúc nương cầu,
Buồm khách ngoài trời chim thẳng cánh.
                                                   Đinh Văn Chấp 

II 
Thắng du gặp gỡ dễ đâu, 
Cuộc đời cát bụi đã hầu lại chăng?
Tựa thuyền, thân thế mịt mùng, 
Chim về vội vã, cánh buồm khách xa. 
                                             Đỗ Quang Liên






Feb 17, 2014

Du Phù Thạch nham kỳ nhị

Tác giả: Phạm Ngộ
遊浮石岩其二
今年重作浮石遊
江山如故人白頭
追歡歲月已不再 
煙波千里生閒愁

Kim niên trùng tác phù thạch du
Giang sơn như cố nhân bạch đầu
Truy hoan tuế nguyệt dĩ bất tái
Yên ba thiên lý sinh nhàn sầu

Dịch nghĩa: 
Dạo chơi động Phù Thạch (bài 2) 
Năm nay trở lại dạo chơi ở Phù Thạch,
Non sông vẫn như cũ, nhưng người đã bạc đầu;
Nhớ lại ngày vui, năm tháng trôi qua không trở lại,
Khói sóng dặm nghìn gợi buồn nhớ vẩn vơ.

Dịch thơ: 
Phù Thạch năm nay lại dạo qua,
Non nước in xưa, người đã già;
Ngày tháng thoi đưa nhà xuân vắng,
Sóng nổi cơn sầu nghìn dặm xa. 
                                        Đinh Văn Chấp 

II 
Năm nay Phù Thạch lại qua, 
Non sông như cũ, sương pha mái đầu; 
Ngày vui, năm tháng qua mau, 
Nghìn trùng khói sóng, mối sầu vẩn vơ. 
                                                    Đỗ Quang Liên 









Feb 14, 2014

235. Du Phù Thạch nham kỳ nhất

Tác giả: Phạm Ngộ
遊浮石岩其一
乃先祖修行之地舟中作
昔年曾作浮石遊
童顏丫髻陪親
 題詩叫詠石壁下
時人竊比眉三蘇

Nãi tiên tổ tu hành chi địa chu trung tác 
Tích niên tằng tác phù thạch du
Đồng nhan a kế bồi thân ngu
Đề thi khiếu vịnh thạch bích hạ
Thời nhân thiết tỉ mi tam tô

Dịch nghĩa: 
Cảm tác lúc đi thuyền dạo chơi ở động Phù Thạch là nơi tổ tiên tu hành (bài 1) 
Năm xưa từng dạo chơi ở Phù Thạch,
Vẻ trẻ thơ, tóc trái đào, theo hầu thân phụ vui vầy;
Đề thơ ngâm vịnh ở dưới vách đá,
Người đương thời trộm ví nhà ta với ba người họ Tô đất Mi Sơn.

Dịch thơ: 
Phù Thạch năm xưa từng dạo qua,
Đầu xanh chầu chực bên mình cha;
Mấy câu đề vịnh dưới sườn đá,
Người lấy Tam Tô trộm ví ta. 
                                  Đinh Văn Chấp 

II 
Năm xưa Phù Thạch dạo chơi, 
Trái đào, thơ ấu vui vầy bên cha; 
Vịnh ngâm vách đá đề thơ, 
Người đời ví với tam Tô thuở nào. 
                                                Đỗ Quang Liên 





Chú thích: 
- Phạm Ngộ cũng thường gọi là Phạm Tông Ngộ hiệu Liêu Khê, người hương Kính Chủ huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, nay thuộc tỉnh Hải Dương, là anh em ruột với Phạm Mại. Ông nguyên họ Chúc tên Kiên, sau vì vua Trần Nhân Tông cho rằng họ Chúc không phải là họ lớn, nên đổi làm họ Phạm. Còn Kiên thì lại trùng với tên của Phán thủ Huệ Nghĩa nên đổi làm Ngộ. Phạm Ngộ làm quan ngay thẳng, thanh liêm. Dưới triều vua Trần Minh Tông (1314-1329) thăng đến Tri chính sự, Đồng tri thượng thư tả ty sự. 
- Theo Phan Huy Chú thì bến đò Phù Thạch thuộc huyện La Sơn, phủ Đức Quang, nay là Nghệ Tĩnh. 
- Mi tam Tô: ba người họ Tô đất Mi Sơn là Tô Tuân, Tô Thức, Tô Triệt; ba cha con đều là những nhà văn lớn đời Tống. Ví với ba cha con họ Phạm là Phạm Mại, Phạm Ngộ và phụ thân của hai ông, cũng là ba người nổi tiếng đời Trần.







Feb 13, 2014

Giang trung dạ cảnh

Tác giả: Phạm Ngộ 范悟
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 
 
江中夜景
淒涼夜月煙凝雪
幾點哀鴻叫天末
長江如練水映空
一聲漁笛千山月

Thê lương dạ nguyệt yên ngưng tuyết
Kỷ điểm ai hồng khiếu thiên mạt
Trường giang như luyện thuỷ ánh không
Nhất thanh ngư địch thiên sơn nguyệt

Dịch nghĩa: 
Cảnh đêm trên sông 
Trăng đêm lạnh lẽo, khói đọng như tuyết,
Mấy chấm chim hồng buồn bã kêu ở cuối trời;
Sông dài như dải lụa, nước ánh lên tầng không,
Một tiếng sáo làng chài, trăng giãi trên nghìn ngọn núi.

Dịch thơ:
Khói dường tuyết đọng, lạnh trăng đêm, 
Mây thẳm hồng kêu mấy chấm buồn; 
Như lụa, sông dài, trời ánh nước, 
Sáo chài một tiếng vút trăng ngàn. 

II 
Khói dày, đêm lạnh hắt hiu, 
Cuối trời buốn mấy tiếng kêu chim hồng; 
Sông như dải lụa tầng không, 
Sáo chài vọng đến vầng trăng non ngàn.




Chú thích: 
Không rõ năm sinh và năm mất, Phạm Ngộ còn được gọi là Phạm Tông Ngộ, hiệu Liêu Khê, người hương Kinh Chủ, huyện Giáp Sơn, phủ Tân hưng, nay thuộc tỉnh Hải Dương. Ông là em ruột Phạm Mại, làm quan triều Trần Minh Tông (1314-1329), đến chức Tri chính sự, Đồng tri thượng thư tả ty sự.




Feb 12, 2014

Tức sự

Tác giả: Trần Hiệu Khả 陳效可
即事
淵明愛醉我不醉
圖南愛睡我不睡 
頹然一枕樂天
醒來萬事都忘記

Uyên minh ái tuý ngã bất tuý
Đồ nam ái thuỵ ngã bất thụy
Đồi nhiên nhất chẩm lạc thiên chân
Tỉnh lai vạn sự đô vong ký

Dịch nghĩa:
Tức sự 
Uyên Minh thích say, ta chẳng say,
Đồ Nam thích ngủ, ta chẳng ngủ;
Ngả nghiêng một giấc, vui với tính trời,
Tỉnh dậy muôn việc đều quên hết.

Dịch thơ: 
Uyên Minh thèm say tớ chẳng thèm,
Đồ Nam thiết ngủ, tớ không thiết;
Điềm nhiên một giấc vui tính trời,
Tỉnh ra muôn việc đều quên tiệt. 
                                                 Huệ Chi 

II 
Ta chẳng say giống Đào Tiềm, 
Ta chẳng nhịn giống Đồ Nam ngủ hoài; 
Giấc ngon vui với tính trời, 
Tỉnh ra ngàn vạn sự đời đều quên. 
                                                  Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Tên Hiệu Khả, có sách chép là Phỏng Khả, hiệu Quất Lâm Tản Khanh, làm quan triều vua Trần Minh Tông (1314-1329) chức không to, nhưng gần vua. Ông là người lắm mưu mẹo. Có lần vua lấy ra hai hộp đựng áo, bảo một cái chính tay Thái Thượng làm, một cái do nội nhân Lê Kế làm, hỏi Khả xem cái nào khéo hơn, Khả xem hai, ba lần rồi đáp nước đôi: “Chúa thượng có cái tài khéo của chúa thượng, thần hạ cũng có cái khéo của thần hạ”, vua cũng phải phì cười. 
- Đào Tiềm tự Uyên Minh (365-427) làm quan Lệnh ở Bành Trạch, không ra đón Đốc Bưu do quan trên sai xuống, mà nói: “Không vì 5 đấu gạo mà khúm núm thờ bọn tiểu nhân”, rồi treo ấn từ quan về trồng cúc làm vui. 
- Đồ Nam tức Trần Đoàn đời Tống, có thể nhịn ăn và ngủ hàng trăm ngày.





Feb 11, 2014

Tương tịch ký kim sơn thiền sư kỳ nhị

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
將寂寄金山禪師 其二
蓄藥欲治病
無病安用藥
今有無米飯
無口人咬著

Súc dược dục trị bệnh
Vô bệnh an dụng dược
Kim hữu vô mễ phạn
Vô khẩu ngân giao trước

Dịch nghĩa: 
Sắp mất gửi Thiền sư Kim Sơn (bài 2) 
Tích thuốc muốn chữa bệnh, 
Không có bệnh dùng thuốc làm gì?
Nay có thứ cơm "không gạo",
Để cho người "không miệng" ăn.

Dịch thơ: 
I
Tích thuốc nhằm chữa bệnh,
Không bệnh, thuốc đâu cần?
Như có “cơm không gạo",
Cho “người không miệng" ăn. 
                                          Huệ Chi 

II 
Tích thuốc nhằm chữa ốm đau, 
Không đau ốm, thuốc nào đâu phải cần; 
Có “cơm không gạo” để phần, 
Cho “người không miệng” dùng ăn cho mình. 
                                                           Đỗ Quang Liên



Feb 10, 2014

Tương tịch ký kim sơn thiền sư kỳ nhất

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
將寂寄金山禪師其一
抱痾欲浹旬
夜臥晝服藥
不喫一粒米
粒粒皆咬著

Bão kha dục hiệp tuần
Dạ ngọa trú phục dược
Bất khiết nhất lạp mễ
Lạp lạp giai giảo trước

Dịch nghĩa: 
Sắp mất gửi thiền sư Kim Sơn (bài 1)
Mang bệnh đã gần trọn tuần,
Đêm nằm, ngày uống thuốc;
Không ăn một hột cơm,
Nhưng hạt nào cũng nhai.

Dịch thơ: 
Mang bệnh đã ngót tuần,
Đêm nằm, ngày uống thuốc;
Cơm một hột không ăn,
Mà hạt nào cũng nuốt. 
                                  Huệ Chi 

II 
Mang bệnh gần trọn một tuần, 
Đêm nằm, ngày lại thuốc nam uống vào; 
Không ăn một hạt cơm nào, 
Thế nhưng chẳng một hạt nào không nhai. 
                                                          Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Theo Thánh đăng ngũ lục: Kim Sơn, theo cách gọi của vua Trần Minh Tông là “Trúc Lâm đệ tam đại thiền tổ” có lẽ là một biệt hiệu của Huyền Quang chăng? Nhưng theo Tam Tổ thực lục thì Huyền Quang mất năm 1334, bấy giờ vua Minh Tông còn ở ngôi Thượng Hoàng, nghe tin bèn gửi tặng 10 lạng vàng để chùa xây tháp cho ông. Như vậy, Huyền Quang không thể là người chết sau vua Minh Tông được. Xin coi là một nghi vấn. 
- Trần Mạnh, con thứ tư của vua Trần Anh Tông, cháu ngoại Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng. Thuở nhỏ, vua cha sợ khó nuôi, cho Trần Nhật Duật đêm về nuôi như con. Năm 15 tuổi, vua cha lên làm Thượng Hoàng, Minh Tông lên kế vị.



Feb 7, 2014

230. Chẩn mạch

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
診脈
診脈休論煩悶多
鄒公良劑要調和
若言煩悶無休歇
只恐重招煩悶加

Chẩn mạch hưu luân phiền muộn đa
Trâu công lương tễ yếu điều hoà
Nhược ngôn phiền muộn vô hưu yết
Chỉ khủng trùng chiêu phiền muộn gia

Dịch nghĩa: 
Xem mạch 
Xem mạch chớ nói phiền muộn nhiều,
Tễ thuốc hay của Trâu công hãy điều hoà cho tốt;
Nếu bảo nỗi phiền muộn không bao giờ dứt được,
Thì chỉ sợ càng khiến cho sự phiền muộn tăng thêm mà thôi.

Dịch thơ: 
Xem mạch đừng nên nói muộn phiền,
Trâu công hãy liệu thuốc cho yên;
Bảo rằng phiền muộn không sao dứt,
Chỉ sợ càng tăng phiền muộn lên. 
                                           Cao Huy Giu 

II 
Mạch xem chớ nói muộn phiền, 
Trâu Công thuốc giỏi cốt nên điều hòa; 
Muộn phiền nếu bảo khó qua, 
E rằng phiền muộn có đà tăng thêm. 
                                                Đỗ Quang Liên 





Chú thích: 
- Theo Đại Việt sử ký, vua Trần Minh Tông làm bài thơ này trước lúc mất 1375. Ông bệnh nặng, thầy thuốc Trâu Canh xem mạch nói: “mạch phiền muộn”. Minh Tông vốn không ưa Trâu Canh, mượn thơ để ngỏ ý. Mặt khác, ông rất duy lý trước cái chết, không cho cầu đảo, phóng sinh, cũng không chịu uống thuốc, bài thơ này cũng biểu hiện khía cạnh hài hước. 
- Trâu công tức Trâu Canh, con thầy thuốc Trâu Tôn, Trâu Tôn đi theo quân xâm lược Nguyên, khi bị bắt, y được giữ lại chữa bệnh cho vương hầu. Trâu Canh nối nghiệp cha, có lần chữa khỏi bệnh cho vua Dụ Tông nên được Dụ Tông yêu, nhưng do hạnh kiểm xấu, làm nhiều việc bậy, nên vua Minh Tông rất ghét.