Feb 4, 2014

Tứ phạm tông mại

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
賜范宗邁
臺烏久矣噤無聲
整頓朝綱事匪輕
殿上昂藏鷹虎氣
男兒到此是功名

Đài ô cửu hỹ cấm vô thanh 
Chỉnh đốn triều cương sự phỉ khinh 
Điện thượng ngang tàng ưng hổ khí 
Nam nhi đáo thử thị công danh

Dịch nghĩa: 
Ban cho Phạm Tông Mại 
Chốn Ô Đài lâu rồi sao cứ lặng tiếng, 
Chỉnh đốn kỷ cương triều đình đâu phải việc dễ dàng; 
Trên điện chầu phải ngang tàng như chim cắt, như con hổ, 
Làm trai đến thế mới gọi là công danh. 

Dịch thơ: 
I
Bấy lâu im tiếng chốn ôn đài, 
Chỉnh đốn triều cương há chuyện chơi; 
Hùm, cắt ngang tàng nơi điện ngọc, 
Công danh đến thế xứng tài trai. 
                                         Đào Phương Bình. 

II 
Đài Ô im tiếng đã lâu, 
Triều cương chấn chỉnh việc đâu nhẹ nhàng? 
Hổ, ưng khí phách hiên ngang, 
Làm trai như thế xứng đàng công danh. 
                                                          Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Nam Ông mộng lục ghi: thời gian Phạm Mại làm ngự sử trung thừa, vụ án Trần Quốc Chẩn đã xảy ra. Do bị Văn Hiến hầu xúi giục, Quốc Chẩn bị khép tội chết năm 1328. Riêng Phạm Mại xác nhận Trần Quốc Chẩn bị oan và ra sức biện bác, nhưng Minh Tông cứ làm theo ý mình. Sau khi bị giết, thì tìm ra bằng chứng kẻ vu cáo. Minh Tông thẹn và sợ, truy tặng bố vợ hết sức trọng hậu và rất phục Phạm Mại, có thể đoán bài thơ được làm năm 1334 là năm Quốc Chẩn được truy phục quan chức. 
- Ô đài (đài chim quạ) chỉ đài Ngự sử. Theo Hán thư: vào đời Hán, ccạnh đài Ngự sử trồng nhiều cây bách, quạ đậu nhiều, nên người ta gọi đài Ngự sử là Ô đài.




No comments:

Post a Comment