Oct 31, 2015

635. Phục tặng phương đình



Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

復贈方亭
一夜相逢莫自忙
百年爲客路猶長
對君偏有狐邱感
何處溪山是故鄉

Nhất dạ tương phùng mạc tự mang 
Bách niên vi khách lộ do trường 
Đối quân thiên hữu hồ khâu cảm 
Hà xứ khê sơn thị cố hương

Dịch nghĩa: Lại tặng Phương Đình  

Một đêm gặp nhau không nên bộn rộn, 
Trăm năm làm khách đường còn dài; 
Đối với ông, tôi riêng có tình cảm “quay đầu về núi”, 
Nơi nào có núi, có khe là quê cũ.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Một tối bên nhau chẳng vội vàng,
Trăm năm lữ khách lắm cung đường;
Như anh ý “cáo quay về núi”,
Rừng, suối nơi nào cũng cố hương! 

II 
Một đêm chộn rộn mà chi,
Trăm năm là khách, đường đi còn dài;
“Quay đầu về núi” như ai,
Chốn nào rừng núi cũng nơi quê nhà!





Chú thích: 
- Phương Đình: Tên hiệu Nguyễn Văn Siêu, bạn thân của tác giả, quê Hà Nội, đỗ Phó bảng đời Tự Đức, hai người cùng nổi tiếng hay chữ. Thời bấy giờ có câu: “Thần Siêu, thánh Quát”. 
- Thời xưa quan niệm cuộc sống con người 100 năm chỉ như một khách trọ. 
- Quay đầu về núi: Nguyên văn Hồ Khâu nói tắt câu ngạn ngữ: “Hồ tử thủ khâu” chuyển nôm thành: “Cáo chết ba năm quay đầu về núi” được dung làm biểu tượng cho tình cảm cố hương.



Oct 30, 2015

Nhị thập tam dạ khán nguyệt kỳ nhị



Họa phan hành phủ nhị thủ
Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

二十三夜看月其二
何人酌酒問青天
試把摩尼照火千
造物本來無著相
只留一半在山川

Hà nhân chước tửu vấn thanh thiên 
Thí bả ma ni chiếu đại thiên
Tạo vật bản lai vô chước tướng 
Chỉ lưu nhất bán tại sơn xuyên

Dịch nghĩa: Đêm hai mươi ba trông trăng (Bài 2)  

Ai đó rót rượu mà hỏi trời xanh, 
Thử đem viên ngọc “ma ni” soi khắp đại niên thế giới;
Tạo vật từ xưa vốn không có hình tướng nhất định,
Chỉ để cho núi sông thấy có một nửa thôi!

Dịch thơ: 

Ai nào nâng chén hỏi trời xanh,
Vũ trụ soi qua vẻ ngọc lành;
Tạo vật xưa nay không bóng dáng,
Lửng lơ song núi chỉ lưng vành. 
                              Khương Hữu Dụng 

II 
Nâng ly, ai hỏi trời xanh, 
Ba nghìn thế giới ngọc lành thử soi; 
Vốn không sắc tướng trong đời, 
Núi sông tạo vật cho soi nửa vành. 
                                     Đỗ Quang Liên





Chú thích: 
- Mani: Tiếng Phạn, nghĩa là viên ngọc báu rất sáng, để vào nước đục nước cũng hóa trong. Tác giả ví viên ngọc với mặt trăng và tiếc rằng mặt trăng không tròn, không soi khắp được mọi nơi. 
- Đại thiên thế giới: Theo sách nhà Phật: Hợp một nghìn thế giới lại gọi là “Tiểu thiên thế giới”, hợp một nghìn Tiểu thiên thế giới là “Trung thiên thế giới”, hợp một nghìn Trung thiên thế giới là “Đại thiên thế giới”.




Oct 29, 2015

Nhị thập tam dạ khán nguyệt kỳ nhất

Họa phan hành phủ nhị thủ


Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

二十三夜看月其一
和潘衡甫二首
把鏡孀娥側眼窺
自憐幽獨自嬌痴
豈知北郭孤吟夜
更是西窗仰面時

Bả kính dương nga trắc nhãn khuy 
Tự liên u độc tự kiều si 
Khởi tri bắc quách cô ngâm dạ 
Cánh thị tây song ngưỡng diện thì

Dịch nghĩa: Đêm hai mươi ba trông trăng Họa thơ Phan Hành Phủ hai bài (bài 1)  

Chị Hằng góa bụa cầm gương ghé mắt nhìn, 
Tự thương mình cô đơn sinh ra bẽn lẽn, thẫn thờ; 
Biết đâu ban đêm ở thành Bắc có người ngâm thơ một mình, 
Chính là qua cửa sổ phía Tây ngoảnh mặt ngắm nhìn.

Dịch thơ: 

Ả nguyệt cầm gương ghé mắt nghiêng, 
Tự thương hưu quạnh thẫn thờ riêng; 
Biết đâu thành Bắc đêm ngâm quạnh,
Chính lúc song Tây ngẩng mặt nhìn. 
                                   Khương Hữu Dụng 

II 
Cầm gương, ả nguyệt nhìn nghiêng,
Tự thương hưu quạnh những riêng thẫn thờ;
Biết đâu thành Bắc người thơ,
Đêm qua của sổ ngẩn ngơ ngắm nhìn. 
                                                    Đỗ Quang Liên 





Oct 28, 2015

Nhĩ phố tảo hồng



Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

珥浦早鴻
江湖萬里稻粱天
可復圖南欲寄箋
歲暮故鄉人未至
玉橋歸路衹風煙

Giang hồ vạn lý đạo lương thiên 
Khả phục đồ nam dục ký tiên 
Tuế mộ cố hương nhân vị chí 
Ngọc kiều quy lộ chỉ phong yên

Dịch nghĩa: Chim Hồng ban sớm bay qua bến sông Nhĩ  

Muôn dặm sông hồ, đầy trời thóc lúa, 
Lại tính chuyện về Nam toan gửi thư; 
Cuối năm, quê cũ người chưa về đến,
Cầu ngọc lối về chỉ thấy gió và khói.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Muôn dặm nước non đầy thóc lúa,
Về Nam đã chực nhắn tin nhàn; 
Cuối năm, làng cũ, người chưa lại,
Cầu ngọc, đường về sương khói lan.

II 
Nước non đầy rẫy gạo kê,
Về Nam những muốn nhắn nhe tin hồng;
Người chưa về lại quê hương,
Cuối năm cầu ngọc ngập đường khói mây.





Chú thích: 
- Sông Nhĩ: Tên khác của sông Hồng. 
- Về Nam: Nguyên văn “đồ Nam” ý chỉ khởi sự thực hiện ý nguyện to tát (Chữ Dung của Trang Tử trong Tiêu dao du)





Oct 27, 2015

Ngư sơn từ



Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

魚山祠
千葉魚帆幾箇回
魚山風浪使人哀
年年此日逢初五
要喚兒夫挂網來

Thiên diệp ngư phàm kỷ cá hồi 
Ngư sơn phong lãng xử nhân ai 
Niên niên xử nhật phùng sơ ngũ 
Yếu hoán nhi phu quải võng lai

Dịch nghĩa: Đền thờ Ngư Sơn  
Ngàn chiếc thuyền buồm đánh cá chỉ có mấy chiếc về, 
Sóng gió ở Ngư Sơn khiến người ta đau buồn; 
Hàng năm, tháng này gặp nhau mồng năm, 
Nên bảo chồng con treo lưới.


Tác giả chú thích: Chợt đến nghỉ lại ở quán Hoàng Mai người ta nói: Bốn ngày trước đó có nạn gió biển ở Ngư Sơn nghe sởn tóc gáy, cảm xúc làm bài thơ này.
 

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

Ngàn chiếc, thuyền về chỉ mấy thôi, 
Ngư Sơn sóng gió não lòng người; 
Hàng năm, tháng ấy, mùng năm ấy, 
Ngăn bảo chồng con treo lưới ngơi. 

II 
Ngàn thuyền đi, mấy chiếc về, 
Ngư Sơn sóng gió não nề lòng đau;
Ngày Năm tháng ấy nhớ câu,
Chồng con treo lưới bảo nhau nghỉ nhà.






Chú thích: 
Có thể là chữ Nguyệt (tháng). Ngày 5 tháng 10 tục làng biển có lời khuyên về nạn sóng gió.