May 28, 2015

Ngẫu hứng



Tác giả: Nguyễn Du 阮攸
偶興
信陽城上動悲笳
秋滿河南百姓家
萬里鄉心回首處
白雲南下不勝多

Tín dương thành thượng động bi già 
Thu mãn hà nam bách tính gia 
Vạn lý hương tâm hồi thủ xứ 
Bạch vân nam hạ bất thăng đa

Dịch nghĩa:  
Ngẫu nhiên cảm hứng   
Trên thành Tín Dương nổi lên tiếng khèn bi ai, 
Hơi thu đầy cả nhà dân đất Hà Nam; 
Lòng nhớ quê xa muôn dặm, quay đầu nhìn lại, 
Thấy về phía nam, mây trắng nhiều không xiết.

Dịch thơ:

Tín Dương buồn vọng tiếng kèn xa, 
Thu tới Hà Nam khắp mọi nhà; 
Ngoảnh lại quê hương muôn dặm thẳm, 
Trời Nam mây trắng, trắng bao la. 
                      Phạm Khắc Khoan - Ngô Ngọc Can 

II 
Tín Dương não nuột một tiếng khèn, 
Thu buồn tràn ngập Hà Nam mọi nhà; 
Quay đầu muôn dặm quê xa, 
Trời Nam mây trắng biết là bao nhiêu?!
                                                   Đỗ Quang Liên




 
Chú thích: 
- Tín Dương: huyện ở phía Nam của tỉnh Hà Nam, trên một nguồn của sông Hoài. Hà Nam là đất trung ương của chín châu (Cửu châu) xưa, cho nên cũng gọi là Trung châu. 
- Bạch vân: mây trắng. Địch Nhân Kiệt, đời Đường lên chơi núi Thái Hàng, chỉ một đám mây trắng mà nói với người tả hữu rằng: Nhà cha mẹ ta ở dưới ấy. Người đời sau lấy chữ Bạch vân tứ là mây trắng để nói nỗi lòng người nhớ quê.





May 27, 2015

Sơ thu cảm hứng kì nhị



Tác giả: Nguyễn Du 阮攸
初秋感興其二
江上西風木葉稀
寒蟬終日噪高枝
其中自有清商調
不是愁人不許知

Giang thượng tây phong mộc diệp hy 
Hàn tiền chung nhật tháo cao chi 
Kỳ trung tự hữu thanh thương điệu 
Bất thị sầu nhân bất hữu tri

Dịch nghĩa: 
Cảm hứng đầu thu (bài 2) 
Gió Tây thổi trên sông, lá cây thưa thớt, 
Ve ve lạnh suốt ngày kêu trên cành cao; 
Trong ấy có điệu thương là điệu ai oán, 
Không phải là người có nỗi buồn thì không biết được. 

Dịch thơ: 

I
Gió lạnh trên sông, cây lá thưa, 
Cành cao ve hát tự mai giờ; 
Nghe ra điệu nhạc sao ai oán; 
Chẳng phải người sầu ắt hững hờ. 
                                    Đào Duy Anh 

II
Gió Thu sông quạnh, lá bay, 
Tiếng ve lạnh vọng suốt ngày cành cao; 
Giọng nghe thấm điệu tiêu tao, 
Người không sầu não khó chiều nhận ra. 
                                                  Đỗ Quang Liên 





May 26, 2015

Sơ thu cảm hứng kì nhất



Tác giả: Nguyễn Du 阮攸
初秋感興其一
蕭蕭木落楚江空
無限傷心一夜中
白髮生憎班定遠
玉門關外老秋風

Tiêu tiêu mộc lạc sở giang không 
Vô hạn thương tâm nhất dạ trung
Bạch phát sinh tăng ban định viễn 
Ngọc môn quan ngoại lão thu phong

Dịch nghĩa:  
Cảm hứng đầu thu (bài 1) 
Lặng lẽ cây rụng lá, sông Sở như trống không, 
Nỗi đau lòng vô hạn trong một đêm; 
Tóc bạc sinh ra, Ban Định Viễn không ưa, 
Ở ngoài cửa ải Ngọc Môn đã già với gió Thu. 

Dịch thơ: 

I
Sông Sở tiêu điều lá trụi cây, 
Suốt đêm khôn xiết nỗi lòng này; 
Ban Siêu vốn ghét đầu phơ bạc, 
Ngoài cửa Ngọc Môn gió dạn dày. 
                                       Đào Duy Anh 

II
Tơi bời lá rụng sông Tương, 
Suốt đêm dồn dập vẫn vương nỗi sầu; 
Ban Siêu ngán cảnh bạc đầu, 
Ngọc Môn Quan mãi dãi dầu gió thu. 
                                          Đỗ Quang Liên





Chú thích: 
- Sở giang: sông Sở, tức sông Tương. 
- Ban Định Viễn: Ban Siêu, tướng đời Đông Hán, đi chinh phục các nước Tây Vực, hơn ba chục năm, đến già mới về. 
- Ngọc Môn Quan: cửa quan xưa thuộc huyện Đôn Hoàng, tỉnh Cam Túc, trên đường thông với các nước Tây Vực.





May 25, 2015

560. Thương ngô trúc chi ca kì thập ngũ



Tác giả: Nguyễn Du 阮攸
蒼梧竹枝歌其十五
船尾燈籠四尺竿
船頭畫虎黑斑斑
布旗上冩巡河字
只詰花船不詰奸

Thuyền vĩ đăng lung tứ xích can
Thuyền đầu họa hổ hắc ban ban 
Bố kỳ thượng tả tuần hà tự 
Khủng cật hoa thuyền bất cật gian

Dịch nghĩa:   
Bài ca trúc chi về đất Thương Ngô (bài 15) 
Ở đuôi thuyền, đèn lồng treo cao bốn thước, 
Ở đầu thuyền, vẽ con cọp đen loang lổ; 
Cờ vải trên viết chữ “Tuần hà”, 
Chỉ hỏi thuyền chơi chứ không hỏi kẻ gian.

Dịch thơ: 

I
Bốn thước sào treo đèn cuối khoang, 
Đầu thuyền vẽ hổ sắc như than; 
“Tuần sông” đề chữ trên cờ vải, 
Chỉ xét thuyền hoa, chẳng xét gian. 
                                                Kim Hưng 

II 
Đèn cao bốn thước cuối thuyền, 
Đầu thuyền lại vẽ cọp đen thêm vằn; 
Lá cờ đề chữ “Tuần sông”, 
Thuyền hoa thì xét, kẻ gian thì lờ. 
                                         Đỗ Quang Liên 





May 22, 2015

Thương ngô trúc chi ca kì thập tứ



Tác giả: Nguyễn Du 阮攸
蒼梧竹枝歌其十四
長裙褶褶曵輕綃
雲髻峨峨擁翠翹
贏得鬼頭滿囊口
憑君無福也能消

Trường quần triệp triệp duệ khinh tiêu 
Vân kế nga nga ủng thúy kiều 
Doanh đắc quỷ đầu mãn nang khẩu 
Bằng quân vô phúc dã năng tiêu

Dịch nghĩa:   
Bài ca trúc chi về đất Thương Ngô (bài 14) 
Quần dài gấp nếp choàng mảnh lụa mỏng, 
Búi tóc mây cao cao cài lông mã đuôi màu biếc; 
Đánh bạc được đầy túi tiền, 
Thì dù anh vô phước cũng cứ tiêu được.

Dịch thơ: 

Áo the chẽn hẹp quần the dài, 
Tóc búi cao cao trâm thúy cài; 
Đánh được túi tiền đầy lủng lẳng, 
Dù anh vô phước cũng hay xài. 
                                   Đào Duy Anh 

II 
Lụa mỏng choàng chiếc quần dài, 
Cao cao búi tóc mây cài lông chim; 
Bạc bài vơ chật túi tiề,
Dù anh vô phước cũng xin mà xài. 
                                          Đỗ Quang Liên