Apr 30, 2014

Quan xá

Tác giả: Trần Quán 陳觀

官舍
夕陽雲合黃龍洞
曉雪濤翻隻箸山
公暇掩蓬歸海國
白鷗前導過溪灣

Tịch dương vân hợp hoàng long động 
Hiểu tuyết đào phiên chích trợ san 
Công hạ yểm bồng qui hải quốc 
Bạch âu tiền đạo quá khê loan

Dịch nghĩa: 
Nơi quan xá 
Mây chiều khép lại động Hoàng Long, 
Sông buổi sớm trắng như tuyết cuộn lên núi Chích Trợ; 
Rảnh việc công, đóng kín mui thuyền xuôi về miền bể, 
Có chim bạch âu dẫn đường lướt qua eo suối.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Trời tà, mây phủ động Hoàng Long,
Sớm, sóng vờn non tựa tuyết bông; 
Việc rảnh, khpé mui, thuyền hướng biển, 
Bạch câu, qua vịnh, dẫn thông đường. 

II
Trời chiều, mây phủ Hoàng Long, 
Sớm, sóng như tuyết vỗ sườn núi cao; 
Việc rỗi, theo cánh chim âu, 
Khép mui, qua vịnh, thuyền vào biển xa.


Apr 29, 2014

Lan cốc kỳ tứ

Tác giả: Vũ Thế Trung 武世忠

蘭谷其四
風傳花氣遶浮溪
矮矮遮香野老籬
春滿山雲初過雨
一爐柏子讀騷詞

Phong truyền hoa khí nhiễu phù khê 
Oải oải già hương dã lão ly 
Xuân mãn sơn vân sơ quá vũ 
Nhất lô bách tử độc tao từ

Dịch nghĩa: 
Lan trong núi (bài 4) 
Gió đưa mùi hoa phảng phất quanh khe cạn, 
Hương thơm bay là là phủ lên bờ giậu của ông già đồng quê; 
Xuân đầy mây núi, mưa vừa tạnh, 
Đốt một lò quả thông, đọc khúc Ly Tao.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Mùi hoa gió thoảng quanh khe cạn, 
Phủ giậu già quê hương ngạt ngào 
Mây núi tràn xuân, mưa mới tạnh, 
Đốt lò quả bách, đọc Ly Tao. 

II 
Mùi hương gió thoảng quanh khe, 
Là là bờ giậu cụ già đồng quê; 
Xuân đầy mây núi, tạnh mưa, 
Ly Tao ngâm ngợi trước lò quả thông.


Chú thích: Tao từ: tức Ly Tao, một tác phẩm nổi tiếng của Khuất Nguyên



Apr 28, 2014

Lan cốc kỳ tam

Tác giả: Vũ Thế Trung 武世

蘭谷其三
謝砌春遲遶幾回
一芽露綻碧初開
欲知高潔無塵處
嚴子秋風坐釣臺

Tạ thiết xuân trì nhiễu kỷ hồi 
Nhất nha lộ trán bích sơ khai 
Dục tri cao khiết vô trần xứ 
Nghiêm tử thu phong tọa điếu đài

Dịch nghĩa: 
Lan trong núi (bài 3) 
Xuân muộn mấy lần lượn quanh thềm nhà họ Tạ, 
Một búp non vừa nhú, mầu biếc mở đầu; 
Muốn biết chỗ cao khiết không bụi bặm, 
Xin tới đài câu trong gió thu của Nghiêm Tử.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Cuối xuân mấy lượt quanh thềm Tạ, 
Búp biếc, non tơ nhú mở đầu; 
Muốn biết thanh cao không bụi bặm, 
Gió thu, Nghiêm Tử chốn đài câu. 

II 
Cuối xuân thềm Tạ lượn quanh, 
Búp non vừa nhú, mầu xanh mở đầu; 
Muốn tìm nơi sống thanh cao, 
Hỏi thăm Nghiêm Tử nơi nào đài câu.


Chú thích: 
Nghiêm Tử: tức Nghiêm Quang, tự Tử Lăng, bạn đồng học với Lưu Tú, Khi Lưu Tú lên ngôi vua (tức Hán Quang Vũ), Tử Lăng đi ở ẩn ở núi Phú Xuân, thường ngồi câu cá ở sông Đồng Giang. Về sau chỗ Tử Lăng ngồi câu gọi là Tử lăng điếu đài.


Apr 25, 2014

Lan cốc kỳ nhị

Tác giả: Vũ Thế Trung 武世忠

蘭谷其二
沙石年深細吐花
清於松月淡於茶
朝庭欲識花中隱
休說王家與謝家

Sa thạch niên thâm tế thổ hoa 
Thanh ư tùng nguyệt đạm ư trà 
Triều đình dục thức hoa trung ẩn 
Hưu thuyết vương gia dữ tạ gia

Dịch nghĩa:  
Lan trong núi (bài 2) 
Sống lâu năm ở nơi cát sỏi, hé nở nụ hoa, 
Trong hơn ánh trăng trên ngọn thông, thanh đạm hơn trà; 
Triều đình muốn biết hoa ở ẩn trong các loài hoa, 
Xin đừng nhắc đến nhà họ Vương và nhà họ Tạ.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Giữa cát lâu năm hé nụ hoa, 
Trong hơn trăng sáng, đượm hơn trà; 
Triều đình muốn biết loài hoa ẩn, 
Vương, Tạ hai nhà chớ đặt ra. 

II 
Từ trong cát sỏi nở hoa, 
Hơn trăng ánh bạc, hơn trà mùi thanh; 
Loài hoa riêng tự náu mình, 
Họ Vương, họ Tạ thanh danh hơn nào.


Chú thích: 
Nhà họ Vương, họ Tạ (vương gia dữ tạ gia): hai nhà quý tộc nổi tiếng phong lưu, phú quý ở đời nhà Tấn, Trung Quốc. Nhắc đến hai nhà này, tác giả muốn nói phẩm chất những người ở ẩn còn cao quý hơn cả sự giàu sang của nhà họ vương và nhà họ Tạ.

Apr 24, 2014

285. Lan cốc kỳ nhất

Tác giả: Vũ Thế Trung 武世忠

蘭谷其一
豈論北里與東園
稚卉風荄競綠繁
千古湘纍呼不起
強賡楚些慰香魂

Khởi luân bắc lý dữ đông viên 
Trĩ huỷ phong cai cạnh lục phồn 
Thiên cổ tương luy hô bất khởi 
Cưỡng canh sở tá uý hương hồn

Dịch nghĩa: 
Lan trong núi (bài 1) 
Chẳng cứ là ở xóm Bắc hay vườn Đông, 
Cỏ non cây mát đua nhau xanh tốt; 
Nghìn năm oan hồn sông Tương, gọi chẳng được, 
Gượng ngâm bài Sở Tá để an ủi hương hồn.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Cứ gì xóm Bắc với vườn Đông, 
Cây cỏ đua nhau mọc tốt rờn; 
Ngàn thuở sông Tương oan chẳng rửa, 
Gượng ngâm Sở Tá gửi hương hồn. 

II 
Chẳng riêng xóm Bắc, vườn Đông, 
Cỏ non, cây mát xanh rờn ganh đua; 
Sông Tương ngàn thuở chẳng thưa, 
Gượng ngâm Sở Tá gửi về hồn oan.


Chú thích: 
- Chỉ biết Vũ Thế Trung làm quan cuối đời Trần, còn quê quán và ngày sinh, ngày mất đều chưa rõ. Tác phẩm còn 4 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. 
- Oan hồn sông Tương (Tương luy): chỉ Khuất Nguyên, nhà thơ yêu nước thời Chiến Quốc,bị Sở Hoài Vương kết tội oan nên tự trầm ở sông Mịch La, huyện Tương Âm, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Khuất Nguyên thích hoa lan, tác giả làm bài thơ này ngụ ý nhớ tới Khuất Nguyên. 
- Sở Tá: bài Chiêu hồn trong Sở Từ, cứ cuối mỗi câu lại đệm chữ “Tá”, vì vậy bài này cũng được gọi là Sở Tá. Về sau hai chữ Sở Tá chỉ việc chiêu hồn người đã mất.



Apr 23, 2014

Đề ngô khê

Tác giả: Nguyễn Quý Ưng 阮季膺

題浯溪
石刻年深字已漫
幾回客過洗磨看
中興頌得春秋法
褒貶當時屬筆端

Thạch khắc niên thâm tự dĩ man 
Kỷ hồi khách quá tẩy ma khan 
Trung hưng tụng đắc xuân thu pháp 
Bao biếm đương thời thuộc bút đoan

Dịch nghĩa:  
Đề cảnh Ngô Khê  
Đá khắc lâu năm chữ đã mờ, 
Mấy lần khách qua phải rửa, mài để xem; 
Bài tụng Trung Hưng học được cách viết sách Xuân Thu, 
Sự khen chê bấy giờ là thuộc về ngòi bút ấy.

Dịch thơ: 

Bia khắc lâu năm chữ đã mờ, 
Khách qua đường xoa đọc bia xưa; 
Mới hay bút pháp Trung Hưng tụng, 
Sắc nét khen chê việc bấy giờ.
                                            Tuấn Nghi


II 
Lâu năm, chữ khắc đã mờ,
Từng nhiều du khách rửa, lau mới tường; 
Xưa Xuân Thu, lại Trung Hưng, 
Tụng, Kinh sắc sảo bút thường khen chê. 
                                                   Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Nguyễn Quý Ưng hiệu là Trác Phong, làm quan vào cuối đời Trần, có đi sứ Trung Quốc. Tác phẩm hiện còn hai bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. 
- Ngô Khê: con suối ở huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Nhà thơ Nguyễn Kiết đời Đường làm nhà ở đấy, làm văn bia Ngô Khê trung hưng bi, nói việc Đường Minh Hoàng gặp loạn An Lộc Sơn. 
- Bài tụng Trung hưng (Trung Hưng tụng): Đường Túc Tông dấy binh đánh An Lộc Sơn, khôi phục nhà Đường. Nguyên Kiết có dâng 3 bài tụng bàn về thời sự, chỉ trích việc đương thời, đời sau gọi là Trung Hưng tụng. 
- Xuân Thu: bộ sử biên niên nước Lỗ (từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công) nhưng cũng chép những sự kiện lớn thời Xuân Thu (từ Chu Bình Vương đến Chu Kính Vương, gồm 242 năm), trong đó Khổng Tử dùng bút pháp chỉ một chữ mà khen, chỉ một chữ ngụ ý chê. Đời sau gọi là Xuân Thu bút pháp và có câu: “Nhất tự chi bao, vinh ư ba cổn; Nhất tự chi biếm, nghiêm ư phủ việt” nghãi là Một chữ khen, vinh hơn mặc áo gấm; một chữ chê nghiêm hơn búa rìu.



Apr 22, 2014

Đề đường minh hoàng dục mã đồ

Tác giả: Chu Đường Anh 朱唐瑛

題唐明皇浴馬圖
玉花照夜絕權奇 
浴罷牽來近赤墀
若使愛人如愛馬
蒼生何至有瘡痍

Ngọc hoa chiếu dạ tuyệt quyền kỳ 
Dục bãi khiên lai cận xích trì 
Nhược sử ái nhân như ái mã 
Thương sinh hà chí hữu sang di

Dịch nghĩa: 
Đề tranh Đường Minh Hoàng tắm cho ngựa 
Con ngựa "Ngọc hoa chiếu dạ" chạy giỏi tuyệt vời, 
Tắm xong dắt đến gần thềm son; 
Nếu vua yêu người cũng như yêu ngựa, 
Thì dân đen đâu đến nỗi cơ cực?

Dịch thơ: 

Ngựa Ngọc hoa sao khéo lạ lùng, 
Tắm rồi đem tiến dưới sân rồng; 
Nếu lòng yêu mến người như ngựa, 
Lọ phải lo dân nỗi khốn cùng?
                                      Đinh Văn Chấp 

II 
“Ngọc Hoa” chạy giỏi tuyệt vời, 
Tắm xong dắt lại gần nơi bệ rồng; 
Yêu người, yêu ngựa song song, 
Dân đen đâu phải khốn cùng – hỡi vua. 
                                               Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
- Chu Đường Anh còn có tên Chu Đường Thương, hiệu là Liêu Thuỷ, từng làm Chuyển vận sứ vào cuối đời Trần. Tác phẩm hiện còn hai bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. Đường Minh Hoàng tức Đường Huyền Tông, vua thứ 6 nhà Đường. Ngọc hoa chiếu dạ tứ Ngọc hoa thông, con ngựa quý của vua Đường Minh Hoàng. 
- Chạy giỏi tuyệt vời (tuyệt quyền kỳ): Việt âm thi tập chú: "Tô Đông Pha tác, câu dĩ quyền kỳ” nghãi là Thơ Tô Đông Pha như ngựa câu đã đạt đến mức chạy tuyệt giỏi. Từ điển Từ Hải ghi: “Quyền kỳ kỳ quyết phi thường” nghĩa là Vô cùng tinh khôn (hoặc tinh ranh).




Apr 21, 2014

Tặng tư đồ nguyên đán

Tác giả: Trần Ngạc 陳顎

贈司徒元旦
我是當年棄物
公非大廈奇才
會取一般老病
田園早辨歸來

Ngã thị đương niên khí vật 
Công phi đại hạ kỳ tài 
Hội thủ nhất ban lão bệnh 
Điền viên tảo biện quy lai

Dịch nghĩa: 
Tặng tư đồ Nguyên Đán 
Tôi nay vào hạng bỏ đi, 
Ông chẳng phải người kỳ tài trong thiên hạ; 
Cùng một phường già nua bệnh tật cả, 
Nên sớm tìm cách lui về vườn ruộng.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên   

Tôi nay vào hạng bỏ rồi,
Ông chẳng kỳ tài thiên hạ; 
Cùng lớp ốm đau già cả, 
Sớm nên kiếm cách về thôi. 

II 
Tôi nay vào hạng bỏ rồi, 
Với đời ông chẳng kỳ tài lắm đâu; 
Một phường già yếu ốm đau, 
Điền viên sớm liệu cùng nhau lui về.





Apr 19, 2014

Tuyệt mệnh thi

Tác giả: Lưu Thường 劉常

絕命詩
殘年四十有餘三
忠義逢誅死正甘
抱義生前應不負
暴屍原上又何暫

Tàn niên tứ thập hữu dư tam 
Trung nghĩa phùng tru tử chính cam 
Bão nghĩa sinh tiền ưng bất phụ 
Bộc thi nguyên thượng hựu hà tàm

Dịch nghĩa: 
Thơ tuyệt mệnh 
Tuổi tàn nay đã bốn chục lẻ ba rồi, 
Vì trung nghĩa mà bị giết, chết cũng cam tâm; 
Lúc sống ta không phụ chí ôm lòng trung nghĩa, 
Nay phải phơi thây ngoài đồng nội, có thẹn gì đâu!

Dịch thơ:

Bốn mươi ba tuổi thân tàn tạ, 
Trung nghĩa, sa cơ chết cũng đành; 
Giữ tiết bình sinh lòng chẳng phụ, 
Phơi thây ngoài nội hẳn không kinh!
                                     Đào Phương Bình 


II

Tuổi tàn bốn chục lẻ ba, 
Vì trung phải chết, sa cơ cam đành; 
Sống không phụ chí bình sinh, 
Phơi thây đồng nội, hồn mình thẹn chi! 
                                                      Đỗ Quang Liên   




Chú thích: 
Lưu Thường (1345-1388). Năm 1388, do sự dèm pha của Hồ Quý Ly, vua Trần Nghệ Tông đã buộc Đế Nghiễn phải thắt cổ chết, Lưu Thường cùng với Nguyễn Khoái, Nguyễn Văn Nhi định cứu Đế Nghiễn, nhưng việc bại lộ, tất cả đều bị giết.
Tác phẩm hiện còn 1 bài thơ chép trong Tinh tuyển chư gia luật thi.





Apr 18, 2014

280. Đề phạm điện súy gia trang

Tác giả: Trần Thiên Trạch 陳天澤

題范殿帥家莊
橋七八重虹矮矮
水東西折綠迴迴
不因看石尋梅去
何物能招宰相來

Kiều thất bát trùng hồng oải oải 
Thủy đông tây chiết lục hồi hồi 
Bất nhân khán thạch tầm mai khứ 
Hà vật năng chiêu tể tướng lai

Dịch nghĩa: 
Đề trang trại của Điện soái Phạm Ngũ Lão 
Cầu bảy tám tầng như cầu vồng thấp là là, 
Nước rẽ ngoặt về 2 phía Đông, Tây thành dải màu xanh quanh co; 
Nếu không phải vì để ngắm đá tìm mai, 
Thì có ai vời nổi quan Tể tướng (Phạm Ngũ Lão) đến đây.

Dịch thơ:

Mấy lớp cầu vồng thâm thấp xây, 
Nao nao giòng biếc rẽ Đông, Tây; 
Không vì thưởng thức mai cùng đá, 
Ai dễ đưa quan đến chốn này. 
                                          Tuấn Nghi. 

II 
Cầu như mấy lớp cầu vồng,
Nao nao giòng biếc Tây Đông ngằn ngoèo; 
Tìm mai, ngắm đá lần theo, 
Nếu không, Tể tướng khi nào đến đây. 
                                             Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
Trần Thiên Thạch, con vua Trần Minh Tông (1314-1329), em Trần Nghệ Tông. Năm 1357, khi làm Hữu tướng quốc, được phong làm Cung Tín Vương. Hiện còn 1 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.



Apr 17, 2014

Tứ trung úy Đỗ Tử Trừng

Tác giả: Hồ Quý Ly 胡季犛

賜中尉杜子澄
烏臺久矣噤無聲
頓使朝庭風憲輕
借問子澄懦中尉
書生何事負平生

Ô đài cửu hỹ cấm vô thanh 
Đốn sử triều đình phong hiến khinh 
Tá vấn tử trừng nhụ trung úy 
Thư sinh hà sự phụ bình sinh

Dịch nghĩa: 
Ban cho Trung úy Đỗ Tử Trừng 
Đã lâu rồi, chốn Ô Đài vẫn im hơi lặng tiếng, 
Để cho phong thái, hiệu lệnh triều đình bị coi thường; 
Thử hỏi Tử Trừng, viên Trung úy nhu nhược kia, 
Là kẻ sĩ, sao lại phụ chí bình sinh vậy?

Dịch thơ:

Đài gián từ lâu tiếng vắng tanh, 
Triều đình phép tắc bỗng xem khinh; 
Tử Trừng, Trung uý sao mềm yếu? 
Kẻ sĩ không nên bỏ chí mình. 
                                  Đào phương Bình 

II 
Ô Đài lặng tiếng đã lâu, 
Triều đình phép tắc tựa hầu xem khinh; 
Trung úy sao quá giữ mình, 
Thư sinh phụ chí bình sinh cho đành. 
                                                   Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
- Hồ Quý Ly, tự Lý Nguyên, người hương Đại Lại (phía bắc sông Lèn, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Nguyên là họ Hồ, đến đời Hồ Liêm, làm con nuôi Tuyên úy Lê Hiến, nên đổi là họ Lê. Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Hồ Liêm, nên sử gọi là Lê Quý Ly. Quý Ly có hai cô ruột đều là cung nhân của vua Trần Minh Tông, một người là Minh Từ sinh ra Trần Duệ Tông, nên được vua Trần Nghệ Tông đặc biệt tin dùng. Năm 1387, được phong Đồng Bình chương sự, được ban gươm và lá cờ đề chữ: “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”. 
Năm 1400, Hồ Quý Ly cướp ngôi, đổi tên nước là Đại Ngu. Năm 1406, quân Minh xâm lược, Quý Ly bị bắt đưa sang Trung Quốc cùng hai con là Nguyên Trừng và Hán Thương. 
Quý Lý chủ trương dùng chữ Nôm dịch sách chữ hán. Năm 1392, soạn sách Minh Đạo, sưa sách Luận Ngữ, dịch Kinh Thư, làm sách thi nghĩa cũng bằng Quốc âm. Tác phẩm hiện còn có 5 bài thơ. 
- Năm 1391, các tướng lĩnh nhà Trần họp ở Hóa Châu, có 2 người là Phạm Mãnh và Chu Bỉnh Khuê, nói động đến Quý Ly, bị Đặng Tất và Hoàng Hối Khanh mật báo, Quý Ly giết hai người. Riêng Đỗ Tử Trừng trước sau vẫn im lặng. 
- Ô Đài: dinh quan Ngự sử.




Apr 16, 2014

Đường thái tông dữ bản triều thái tông

Tác giả: Trần Hạo (Trần Dụ Tông 1336-1369) 陳皓 陳裕宗

唐太宗與本朝太宗
唐越開基兩太宗
彼稱貞觀我元豐
建成誅死安生在
廟號雖同德不同

Đường việt khai cơ lưỡng thái tông 
Bỉ xưng trinh quán ngã nguyên phong 
Kiến thành tru tử an sinh tại 
Miếu hiệu tuy đồng đức bất đồng

Dịch nghĩa: 
Vua Thái Tông đời Đường với vua Thái Tông triều ta 
Đường và Việt đều có vua mở mang cơ nghiệp thụy là Thái Tông, 
Bên họ xưng là Trinh Quán, Bên ta xưng là Nguyên Phong; 
Kiến Thành bị giết chết, An Sinh thì được sống, 
Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ lại khác nhau.

Dịch thơ: 

Đường, Việt hai vua hiệu Thái Tông, 
Đường xưng: Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong; 
Kiến Thành bị giết, An Sinh sống, 
Miếu hiệu tuy đồng, đức chẳng đồng.
                                         Đào Phương Bình 

II 
Hai vua đều hiệu Thái Tông, 
Đường: Tring Quán, Việt: Nguyên Phong khác miền; 
Kiến Thành chết, An Sinh còn, 
Tuy giống miếu hiệu, không cùng lòng nhân.
                                                              Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Trần Hạo (Trần Dụ Tông) là con thứ 10 của vua Trần Minh Tông, làm vua 28 năm, niên hiệu là Thiệu Phong (1341-1357) và Đại Trị (1358-1369). Trong những năm Dụ Tông làm vua mất mùa xẩy ra liên tiếp, chính trị đổ nát, nhân dân nhiều nơi nổi lên chống lại triều đình. Nhà Trần suy từ đó. 
Theo sử ghi: Ông có soạn bộ Trần triều đại điển, gồm 2 quyển, nay đã mất, chỉ còn một bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. 
- Đường Thái Tông, vưa thứ hai nhà Đường, đặt niên hiệu Trinh Quán, tên là Lý Thế Dân, con thứ của Lý Uyên (Đường Thái Tổ), có công đánh dẹp lớn. Lý Uyên muốn truyền ngôi cho con trưởng là Kiến Thành, Thế Dân không chịu. Kiến Thành và Nguyên Cát (em Thế Dân) mưu giết Thế Dân, nhưng bị lộ, Thế Dân giết cả hai.
- Trần Liễu, tức An Sinh Vương, vợ là công chúa Thuận Thiên đã có mang Quốc Khang 3 tháng. Năm 1237, Trần Thủ Độ ép Thái Tông lấy Thuận Thiên là chị dâu, để làm việc lớn sau này. Trần Liễu họp quân chống lại, sau thế cô đến xin hàng, lúc đó vua áy náy ra ở núi Yên Tử. Thủ Độ nghe tin, tìm đến đòi chém Trần Liễu, vua dấu Trần Liễu dưới thuyền và nói với Trần Thủ Độ là Trần Liễu hàng, xin Độ rút quân.





Apr 15, 2014

Xuân nhật du sơn tự

Tác giả: Trần Công Cẩn  陳公瑾

春日遊山寺
杖藜扶我入禪關
花草迎人取次攀
院靜山明窗似畫
一庭芳草佛家閒

Trượng lê phù ngã nhập thiền quan 
Hoa thảo nghênh nhân thủ thứ phan 
Viện tĩnh sơn minh song tự họa
Nhất đình phương thảo phật gia nhàn

Dịch nghĩa: 
Ngày xuân chơi chùa trên núi 
Chiếc gậy lê đỡ ta vào cửa thiền, 
Hoa cỏ đón người lần lượt vin; 
Cảnh viện yên lặng, núi sáng, ngoài cửa sổ đẹp như vẽ, 
Một sân cỏ thơm, cảnh nhà Phật thanh nhàn.

Dịch thơ: 

Gậy lê đỡ lão nhập thiền quan, 
Hoa cỏ đón người vịn bước lên; 
Viện vắng ngoài song non tựa vẽ, 
Một sân hương cỏ Phật gia nhàn.
                                      Trần Lê Sáng

II 
Gậy dìu ta đến cửa chùa, 
Cỏ cây nâng đỡ đón đưa bao người; 
Núi quang, viện vắng, nắng tươi, 
Một sân hương ngát, nhàn vui cảnh Thiền. 
                                            Đỗ Quang Liên




Chú thích: 
Trần Công Cẩn là em ruột Trần Đình Sâm, người làng Phúc Đa, xã Chí Tri, huyện Đông Triều, phủ lộ Tân Hưng, trấn Hải Thanh (nay là Đông Triều, Quảng Ninh). Tác phẩm còn một bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục và một bài phú chép trong Quần hiền phú tập.





Apr 14, 2014

Đề thu giang tống biệt đồ

Tác giả: Trần Đình Sâm 陳廷琛

題秋江送別圖
江樹晴更濃
江波綠未已
離思浩難收
滔滔寄江水

Giang thụ tình cánh nùng 
Giang ba lục vị dĩ 
Ly tứ hạo nan thu 
Thao thao ký giang thủy

Dịch nghĩa: 
Đề tranh tiễn biệt trên sông mùa thu 
Trời tạnh, cây bên sông càng xanh đậm, 
Sóng trên sông màu xanh vỗ không ngừng; 
Nỗi nhớ lúc xa nhau mênh mông khó nói hết, 
Đành gửi theo dòng nước cuồn cuộn trôi. 

Dịch thơ: 

Trời tạnh trên sông cây đậm nồng, 
Dưới sông nuớc biếc vẫn xuôi dòng; 
Tứ sầu ly biệt thêm man mác, 
Cho cuốn xuôi cùng với nước sông. 
                         Đào Phương Bình - Trần Lê Sáng 

II 
Cây xanh trời tạnh thêm nồng, 
Dưới sông sóng biếc xuôi dòng vẫn trôi, 
Tứ sầu khó nói nên lời, 
Đành nhờ ngọn sóng cuốn trôi theo dòng. 
                                                 Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
Đình Thám hiệu Hủ Phố (sách Việt âm thi tập chép là Lâu Phố), người làng Phúc Đa, xã Chí Tri, huyện Đông Triều, phủ lộ Tân Hưng, trấn Hải Thanh (nay là Đông Triều, Quảng Ninh). Ông đậu Thám hoa năm 1374, làm đến Ngự sử Trung tán, quyền Giám tu Quốc sử, được vua Trần Duệ Tông cử đi sứ, đối đáp cứng cỏi, ông được người Nguyên khen ngợi, các sử gia cổ nuớc ta đề cao. Khi Hồ Quý Ly lên làm vua, ông giả cách điếc không ra làm quan. 
Hiện còn 2 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.





Apr 11, 2014

275. Vọng đông sơn liễu nhiên am


Tác giả: Trần Nghệ Tông 陳藝宗

望東山了然庵
古木扶疏暫繫舟
禪房岑寂枕清流
明年此夕知誰健
且喜登臨訪舊遊

Cổ mộc phù sơ tạm hệ chu 
Thiền phòng sầm tịch chẩm thanh lưu 
Minh niên thử tịch tri thuỳ kiện 
Thả hỷ đăng lâm phỏng cựu du

Dịch nghĩa: 
Trông am Liễu Nhiên ở Đông Sơn 
Bên cây cổ thụ xum xuê, buộc tạm con thuyền, 
Ngôi chùa cao tĩnh, gối bên dòng nước trong; 
Ngày này năm sau biết ai còn mạnh khoẻ? 
Hãy mừng được lên cao thăm lại chốn chơi cũ.

Dịch thơ: 

Cổ thụ xum xuê, tạm buộc thuyền, 
Gối khe sầm tịch cảnh chùa chiền; 
Năm sau biết đặng ai còn khỏe, 
Chốn cũ lên cao vãn cảnh thiền. 
                                      Trần Lê Sáng 

II 
Buộc thuyền gốc cội xum suê, 
An tu tĩnh mịch bên lề suối trong; 
Năm sau ai có khỏe không, 
Chốn xưa còn được lên thăm – hãy mừng. 
                                                        Đỗ Quang Liên






Apr 10, 2014

Tống bắc sứ ngưu lượng

Tác giả: Trần Phủ - Trần Nghệ Tông 陳甫陳藝宗

送北使牛亮
安南老宰不能詩
空把茶甌送客歸
圓傘山青瀘水碧
隨風直入五雲飛
An Nam lão tể bất năng thi 
Không bả trà âu tống khách quy 
Viên tản sơn thanh lô thuỷ bích 
Tùy phong trực nhập ngũ vân phi

Dịch nghĩa: 
Tiễn sứ phương Bắc Ngưu Lượng 
Tể tướng già An Nam không hay làm thơ, 
Chỉ mang bình trà tiễn khách về; 
Núi Tản xanh xanh, sông Lô biêng biếc, 
Cùng tiễn khách theo gió đi thẳng về phía mây ngũ sắc đang bay.

Dịch thơ: 

An Nam lão tướng chẳng hay thơ, 
Xin có bình trà buổi tiễn đưa; 
Kìa Tản Viên xanh, Lô thủy biếc, 
Mây lành đón khách thẳng bay về. 
Trần Lê Sáng 

II 
An Nam lão tể vụng thơ, 
Chén trà suông nhạt, tiễn đưa sứ thần; 
Sông Lô, núi Tản biếc xanh, 
Khách về quý quốc mây lành gió đưa. 
                                             Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
Trần Phủ con thứ ba của vua Trần Minh Tông. Năm 1331 được phong Cung Đinh Vương. Năm 1338, được phong làm Phiêu kỵ thượng tướng quân, giữ trấn Tuyên Quang. Năm 1353, được phong Hữu tướng quốc. Năm 1367, được phong Tả tướng quốc, gia phong tước Đại Vương. Giữa năm 1369, Dương Nhật Lễ chiếm ngôi, ông có tham gia khôi phục nhà Trần. Nhật Lễ bại, năm 1370, Trần Phủ lên ngôi, tức là vua Trần Nghệ Tông. Năm 1372, ông nhường ngôi cho em là vua Trần Duệ Tông và lên làm Thượng hoàng. Tác phẩm: Theo Đại Việt sử ký toàn thư, Trần Nghệ Tông có soạn Hoàng huấn (1371), Đế Châm (1372), Bảo hòa dư bút (1383). Theo Lịch triều hiến chương loại chí, ông còn Nghệ Tông thi tập. Hiện tất cả đều mất, chỉ tìm thấy năm bài thơ và một bài minh.



Apr 9, 2014

Quá việt tỉnh cương

Tác giả: Đỗ Tử Vi 杜子微

過越井岡
越井凄涼草色秋
蹟留事去使人愁
憑誰覓得三年艾
醫我乾坤一贅疣


Việt tỉnh thê lương thảo sắc thu 
Tích lưu sự khứ sử nhân sầu 
Bằng thuỳ mịch đắc tam niên ngải 
Y ngã càn khôn nhất chuế vưu

Dịch nghĩa: 
Qua đồi Việt Tỉnh 
Đồi Việt Tỉnh thê lương, cây cỏ nhuộm sắc thu, 
Dấu còn nhưng chuyện cũ đã qua, khiến người buồn; 
Nhờ ai tìm được thứ ngải ba năm, 
Chữa giùm ta một cái bướu của trời đất.

Dịch thơ: 

Giếng Việt thê lương, cỏ nhuốm thu, 
Khách buồn ngó thấy dấu khi xưa; 
Nhờ ai tìm được ba năm ngải, 
Giúp chữa đất trời một bướu to. 
                                      Trần Lê Sáng 

II 
Cỏ cây lạnh lẽo màu thu, 
Dấu còn với chuyện đã qua thấm buồn; 
Tìm đâu được ngải ba năm, 
Bướu thừa trời đất, chữa lành giùm cho 
                                                   Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Việt tỉnh: giếng Việt, ở vùng Trâu Sơn, huyện Vũ Ninh (nay thuộc Bắc Ninh). 
- Ngải tam niên: ngải ba năm. Theo Việt Tỉnh trong Lĩnh Nam chích quái, tiên nữ Ma Cô muốn đền ơn Thôi Vỹ, đã trao cho chàng bó lá ngải và dặn: “Giữ cẩn thận, đừng rời khỏi mình. Sau này thấy ai có cái bướu trên đầu, đem cứu cho tan, tất được phú quý”. Về sau Thôi Vỹ đem ngải “để đã ba năm” cứu cho  một con rắn có bướu và được rắn báo đáp, trở nên giàu có. 
- Đỗ Tử Vi hiệu Tồn Trai, từng làm quan vào thời Trần, tới chức Trung thư lệnh. Hiện còn 2 bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.





Apr 8, 2014

Bất mị

Tác giả: Trần Nguyên Đán 陳元旦

不寐
官舍秋霜漏轉遲
故園松菊在天涯
目前盡是關心事
病愈不如猶病時

Quan xá thu sương lậu chuyển trì 
Cổ viên tùng cúc tại thiên nhi (nhai) 
Mục tiền tân thị quan tâm sự 
Bệnh dũ bất như do bệnh thì

Dịch nghĩa: 
Không ngủ
Chốn làm việc quan, trong sương thu, giọt đồng hồ nhỏ chậm, 
Tùng cúc nơi vườn cũ ở tận chân trời xa; 
Trước mắt toàn là những việc phải quan tâm, 
Bệnh khỏi không bằng khi còn bệnh.

Dịch thơ: 
Quan xá sương thu chậm khắc canh,
Cúc tùng vườn cũ góc trời xanh; 
Ngó ra rảnh việc lòng đeo đuổi, 
Thà bệnh còn hơn lúc bệnh lành. 
                         Hoàng Việt thi văn tuyển 

II 
Đêm thu thời khắc chậm trôi, 
Vườn xưa tùng cúc cách vời chân mây; 
Việc đời trước mắt ngập đầy, 
Khỏi đau chẳng được như ngày còn đau.
                                                      Đỗ Quang Liên 




Chú thích: 
Giọt đồng hồ (lậu): ngày xưa, người ta dùng cái hồ bằng đồng, đáy có khoan lỗ nhỏ, giữa hồ dựng một cái cột nhỏ ghi 100 khắc. Đổ nước vào hồ, nước nhỏ giọt, nước vơi đến đâu, số khắc ghi ở cột lộ ra đến đấy. Căn cứ vào đó mà đánh giờ khắc. Ở đây, tác giả buồn, tưởng như giọt đồng hồ rỏ chậm lại.




Apr 4, 2014

Dạ quy chu trung tác

Tác giả: Trần Nguyên Đán 陳元旦

夜歸舟中作
萬國民生沸鼎魚
朔燕東汴已邱墟
歸舟未穩江湖梦
分取漁燈照古書

Vạn quốc dân sinh phí đỉnh ngư 
Sóc yên đông biện dĩ khâu khư 
Quy chu vị ổn giang hồ mộng 
Phân thủ ngư đăng chiếu cổ thư

Dịch nghĩa: 
Thơ làm trong lúc ban đêm đi thuyền về 
Nhân dân muôn nước như cá trong vạc nước sôi, 
Đất Yên phương Bắc, đất Biện phương Đông đã thành gò đống; 
Trên chiếc thuyền về, chưa yên giấc mộng giang hồ, 
Muợn ánh đèn thuyền chài soi đọc cuốn sách cổ.

Dịch thơ: 
Muôn nước dân sinh cá vạc sôi, 
Biện Đông Yên Bắc tả tơi rồi; 
Thuyền về trằn trọc khôn yên giấc, 
Mượn ánh đèn chài dở sách coi.
                                       Hoàng Việt thi văn tuyển 


II 
Muôn dân đói khổ khốn cùng, 
Biện đông, Yên bắc ruộng đồng hoang vu; 
Quay thuyền vương mộng giang hồ, 
Đèn chài, mượn đọc sách xưa giải sầu. 
                                              Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Yên: tức Yên Kinh, nay là thành phố Bắc Kinh; Biện: tức là Biện Kinh, nay là thành phố Khai Phong (bên Trung Quốc). Yên, Biện là hai kinh đô thời nhà Tống. Trong bài thơ này, tác giả muốn nói tình hình rối loạn của nhà Trần lúc bấy giờ.



Apr 3, 2014

270. Mậu thân chính nguyệt tác

Tác giả: Trần Nguyên Đán 陳元旦

戊申正月作
三分頭白寸心丹
世上紛紛萬事難
自笑不如錢若水
年纔四十便休官

Tam phân đầu bạch thốn tâm đan 
Thế thượng phân phân vạn sự nan 
Tự tiếu bất như tiền nhược thuỷ 
Niên tài tứ thập tiện hưu quan

Dịch nghĩa: 
Làm vào tháng Giêng năm Mậu Thân 
Ba phần tóc trên đầu đã bạc, tấc lòng vẫn sắt son, 
Trên đời muôn việc bối rối, khó khăn; 
Tự cười mình không bằng ông Tiền Nhược Thuỷ, 
Tuổi mới bốn mươi đã cáo quan về.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Ba phần tóc bạc tấc lòng son, 
Rối rắm việc đời vạn khó khăn; 
Tự nhạo không bằng Tiền Nhược Thuỷ, 
Tuổi vừa bốn chục đã từ quan. 

II 
Bạc đầu vẫn tấm lòng son, 
Trên đời muôn việc khó khăn rối bời; 
Chẳng bằng Nhược Thủy, tự cười, 
Tuổi vừa bốn chục đã rời việc quan.


Chú thích: 
Tiền Nhược Thuỷ đời Tống bên Trung Quốc, đỗ Tiến Sỹ, giữ chức Đồng tri khu mật, về hưu tỏ ý “cao thượng tri cơ”.

Apr 2, 2014

Nhâm dần niên lục nguyệt tác

Tác giả: Trần Nguyên Đán 陳元旦

壬寅年六月作
年來夏旱又秋霖
禾槁苗傷害轉深
三萬卷書無用處
白頭空負愛民心

Niên lai hạ hạn hựu thu lâm 
Hoà cảo miêu thương hại chuyển thâm 
Tam vạn quyển thư vô dụng xử
Bạch đầu không phụ ái dân tâm

Dịch nghĩa: 
Thơ làm vào tháng sáu năm Nhâm Dần (1362)
Năm nay mùa hè bị hạn, mùa thu lại bị lụt, 
Lúa khô mạ thối, tai hại càng nhiều; 
Đọc ba vạn cuốn sách mà thành vô dụng, 
Bạc đầu luống phụ lòng thương dân. 

Dịch thơ: 
Năm nay hạ hạn lại thu mưa, 
Đau nỗi mùa màng những thiệt thua; 
Bạ vạn sách dầy đành xếp xó, 
Yêu dân còn nợ, mái đầu phơ. 
                                   Trần Lê Sáng 


II 
Hạn hè rồi lại úng thu, 
Lúa khô, mạ chết mất mùa thêm tăng; 
Ích gì ba vạn quyển thông, 
Bạc đầu ôm hão tấm lòng yêu dân. 
                                             Đỗ Quang Liên
 




Apr 1, 2014

Phụng canh ngự chế hoàng mai tức sự

Tác giả: Trần Nguyên Đán 陳元旦

奉賡御製黃梅即事
浮世年花催白髮
故園松竹笑儒冠
鳳池此日無多事
坐看松陰轉畫欗

Phù thế niên hoa thôi bạch phát 
Cố viên tùng trúc tiếu nho quan 
Phượng trì thử nhật vô đa sự 
Tọa khán tùng âm chuyển họa lan

Dịch nghĩa: 
Kính hoạ vần thơ "Hoàng mai tức sự" của nhà vua 
Cõi đời bồng bềnh năm tháng thôi thúc tóc bạc, 
Tùng trúc vườn xưa cười giễu mũ nhà nho; 
Ao Phượng Hoàng ngày nay không còn nhiều việc, 
Ngồi nhìn bóng tùng nhích tới hàng lan can vẽ.

Dịch thơ: 
Năm tháng phù sinh dồn tóc bạc, 
Trúc thông vườn cũ giễu nhà nho; 
Hôm nay ao Phượng đà rỗi việc, 
Nhìn bóng tùng lăn dưới giậu tô. 
                                Đào Phương Bình 

II 
Bạc đầu theo tháng năm trôi, 
Vườn xưa thông trúc cười người làm quan; 
“Phượng trì” nay việc tạm nhàn, 
Lặng nhìn nhích tới lan can bóng tùng. 
                                                   Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Trần Nguyên Đán (1325-1390), hiệu Băng Hồ. Ông ở hương Tức Mặc, lộ Thiên Trường, nay là huyện Mỹ Lộc, Nam Định. Ông là cháu tằng tôn Trần Quang Khải, bố vợ Nguyễn Phi Khanh, ngoại tổ Nguyễn Trãi. Nguyên Đán là tôn thất, được sớm tập chức. Năm 1369 có công dẹp loạn Dương Nhật Lễ, được chức Tư đồ phụ chính. Đời Trần Đế Nghiễn, Hồ Quý Ly tiếm quyền, Trần Nguyên Đán biết nhà Trần sắp mất, xin về hưu dưỡng ở Côn Sơn, Hải Hưng. Sau khi mất, vua Trần Nghệ Tông có viếng và phong thụy là Chương Túc Quốc Thượng Hầu. Tác phẩm có Băng hồ ngọc hác tập đã mất, chỉ còn 51 bài chép trong Toàn Việt thi lục. 
- Ao Phượng Hoàng (phượng trì): ở Trung Quốc, đời Tấn, bên tòa trung thư có ao Phượng Hoàng, nên tòa trung thư có tên Phượng trì. Đến đời Đường, có người dùng từ Phượng trì để chỉ chức Tể tướng.