Tác giả: Hồ Quý Ly 胡季犛
賜中尉杜子澄
烏臺久矣噤無聲
頓使朝庭風憲輕
借問子澄懦中尉
書生何事負平生
Ô đài cửu hỹ cấm vô thanh
Đốn sử triều đình phong hiến khinh
Tá vấn tử trừng nhụ trung úy
Thư sinh hà sự phụ bình sinh
Dịch nghĩa:
Ban cho Trung úy Đỗ Tử Trừng
Đã lâu rồi, chốn Ô
Đài vẫn im hơi lặng tiếng,
Để cho phong thái, hiệu lệnh triều đình bị coi thường;
Thử hỏi Tử Trừng, viên Trung úy nhu nhược kia,
Là kẻ sĩ, sao lại phụ chí bình
sinh vậy?
Dịch thơ:
I
Đài gián từ lâu tiếng vắng tanh,
Triều đình phép
tắc bỗng xem khinh;
Tử Trừng, Trung uý sao mềm yếu?
Kẻ sĩ không nên bỏ chí
mình.
Đào phương Bình
II
Ô Đài lặng tiếng đã lâu,
Triều đình phép tắc tựa hầu
xem khinh;
Trung úy sao quá giữ mình,
Thư sinh phụ chí bình sinh cho đành.
Đỗ
Quang Liên
Chú thích:
- Hồ Quý Ly, tự Lý Nguyên, người hương Đại Lại
(phía bắc sông Lèn, Vĩnh Lộc, Thanh Hóa). Nguyên là họ Hồ, đến đời Hồ Liêm, làm
con nuôi Tuyên úy Lê Hiến, nên đổi là họ Lê. Hồ Quý Ly là cháu bốn đời của Hồ
Liêm, nên sử gọi là Lê Quý Ly. Quý Ly có hai cô ruột đều là cung nhân của vua
Trần Minh Tông, một người là Minh Từ sinh ra Trần Duệ Tông, nên được vua Trần
Nghệ Tông đặc biệt tin dùng. Năm 1387, được phong Đồng Bình chương sự, được ban
gươm và lá cờ đề chữ: “Văn võ toàn tài, quân thần đồng đức”.
Năm 1400, Hồ Quý
Ly cướp ngôi, đổi tên nước là Đại Ngu. Năm 1406, quân Minh xâm lược, Quý Ly bị
bắt đưa sang Trung Quốc cùng hai con là Nguyên Trừng và Hán Thương.
Quý Lý chủ
trương dùng chữ Nôm dịch sách chữ hán. Năm 1392, soạn sách Minh Đạo, sưa sách
Luận Ngữ, dịch Kinh Thư, làm sách thi nghĩa cũng bằng Quốc âm. Tác phẩm hiện
còn có 5 bài thơ.
- Năm 1391, các tướng lĩnh nhà Trần họp ở Hóa Châu, có 2 người
là Phạm Mãnh và Chu Bỉnh Khuê, nói động đến Quý Ly, bị Đặng Tất và Hoàng Hối
Khanh mật báo, Quý Ly giết hai người. Riêng Đỗ Tử Trừng trước sau vẫn im lặng.
- Ô Đài: dinh quan Ngự sử.
No comments:
Post a Comment