Tác giả: Vũ Thế Trung 武世忠
蘭谷其一
豈論北里與東園
稚卉風荄競綠繁
千古湘纍呼不起
強賡楚些慰香魂
Khởi luân bắc lý dữ đông viên
Trĩ huỷ phong cai cạnh lục phồn
Thiên cổ tương luy hô bất khởi
Cưỡng canh sở tá uý hương hồn
Dịch nghĩa:
Lan trong núi (bài 1)
Chẳng cứ là ở xóm Bắc hay
vườn Đông,
Cỏ non cây mát đua nhau xanh tốt;
Nghìn năm oan hồn sông Tương, gọi
chẳng được,
Gượng ngâm bài Sở Tá để an ủi hương hồn.
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên
I
Cứ gì xóm Bắc với vườn Đông,
Cây cỏ
đua nhau mọc tốt rờn;
Ngàn thuở sông Tương oan chẳng rửa,
Gượng ngâm Sở Tá gửi
hương hồn.
II
Chẳng riêng xóm Bắc, vườn Đông,
Cỏ non, cây mát xanh rờn ganh đua;
Sông Tương ngàn thuở chẳng thưa,
Gượng ngâm Sở Tá gửi về hồn oan.
Chú thích:
- Chỉ biết Vũ Thế Trung làm quan cuối đời Trần, còn
quê quán và ngày sinh, ngày mất đều chưa rõ. Tác phẩm còn 4 bài thơ chép trong
Toàn Việt thi lục.
- Oan hồn sông Tương (Tương luy): chỉ Khuất Nguyên, nhà thơ
yêu nước thời Chiến Quốc,bị Sở Hoài Vương kết tội oan nên tự trầm ở sông Mịch
La, huyện Tương Âm, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Khuất Nguyên thích hoa lan, tác giả
làm bài thơ này ngụ ý nhớ tới Khuất Nguyên.
- Sở Tá: bài Chiêu hồn trong Sở Từ, cứ
cuối mỗi câu lại đệm chữ “Tá”, vì vậy bài này cũng được gọi là Sở Tá. Về sau
hai chữ Sở Tá chỉ việc chiêu hồn người đã mất.
No comments:
Post a Comment