Jul 31, 2013

Chiếu thân

Tác giả: Trần Tung 陳嵩
照身
焦頭爛額被金袍
五七年間是廠糟
縱也超群兼拔萃
一回放下一回高

Tiêu đầu lạn ngạch bị kim bào 
Ngũ thất niên gian thị xưởng tao 
Túng dã siêu quần kiêm bạt tụy 
Nhất hồi phóng hạ nhất hồi cao

Dịch nghĩa: 
Soi mình 
Cháy đầu bỏng trán, thì được mặc áo bào vàng, 
Còn mình năm bảy năm nay vẫn ở nơi xay giã; 
Nếu là bậc siêu quần xuất chúng, 
Thì cứ mỗi lần hạ xuống lại một lần lên cao.

Dịch thơ: 
Cháy đầu bỏng trán mặc kim bào, 
Xay giã bao năm ai biết nào; 
Nếu thực siêu quần và xuất chúng, 
Mỗi lần hạ xuống một lần cao. 
                                         Đỗ Văn Hỷ 

II 
Cháy đầu bỏng trán được sang, 
Bao năm xay giã tu hành hơn chi; 
Đã là xuất chúng thế thì, 
Mỗi kỳ hạ xuống, một kỳ lên cao. 
                                       Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Cháy đầu bỏng trán: Hoắc Quang truyện ghi: Người góp ý sửa ống khói, rời củi không nghe. Khi bếp cháy, những người chữa cháy được mời ăn tiệc, người góp ý trước thì không đả động tới. 
- Xưởng tao: (đúng phải là Tao xưởng) nơi xay thóc giã gạo của nhà chùa, ý nói tu hành.




Jul 30, 2013

Giao hành

Tác giả: Phạm Đình Hổ 范廷琥
郊行
早起獨行行
倦倚荔枝下
隔岸鳥一声
山光如畫

To khi đc hành hành 
Quyn l chi h 
Cách ngn điu nht thanh 
Giang sơn quang như ha

Dịch nghĩa: Kim Anh
Đi chơi 
Sớm dậy một mình thủng thẳng đi 
Đi mệt ngồi tựa dưới gốc vải 
Bên kia bờ sông một tiếng chim kêu 
Non sông sáng rực như bức vẽ.

Dịch thơ:Đỗ Quang Liên
Sớm dậy đi một mình,
Mệt ngồi dưới gốc vải;
Bên bờ một tiếng chim,
Non sông sáng như vẽ.
              
II 
Sáng sớm dậy một mình đi mải 
Đi mệt rồi gốc vải ngồi chơi 
Bên sông một tiếng chim rơi 
Non sông sáng rực đất trời như tranh
                                          



Jul 29, 2013

Lưu biệt

Tác giả: Phạm Đình Hổ 范廷琥
留別
揮毫謝知己
束装賦歸田
同石不云 
無成三十年

Huy hào tạ tri kỉ 
Thúc trang phú quy điền 
Đồng thạch bất vân vũ 
Vô thành tam thập niên

Dịch nghĩa: 
Lưu biệt
Nguyên dẫn: Tháng tám năm Mậu Ngọ (1788) đến nhà học Khánh Vân(*), lưu biệt các bạn trong kinh.
Múa bút tạ tri kỉ, 
Gói hành trang ngâm bài phú “Quy điền”; 
Giống như đá, chẳng nói đến mái nhà, 
Suốt ba mươi năm không thành đạt.

Dịch thơ: 
Múa bút ta tạ người tri kỉ 
Ba mươi năm lại trở về làng 
“Quy điền” phú ấy ngâm vang 
Dãi dầu như đá chẳng màng chở che. 
                                                Kim Anh

II 
Múa bút tạ tri âm, 
Gói đồ ngâm “về vườn”; 
Chẳng cần nhà, như đá, 
Không gì, ba mươi năm. 
                       Đỗ Quang Liên

III 
Múa bút từ tạ tri âm, 
Gói đồ, ngâm khúc “về vườn” thảnh thơi; 
Chẳng cần nhà, giống đá trời, 
Ba mươi năm ấy vẫn người trắng tay. 
                                                    Đỗ Quang Liên 



Chú thích: 
*Khánh Vân: Nay là làng Khánh Vân, xã Khánh Hà, huyện Thường Tín tỉnh Hà Tây cũ.


Jul 26, 2013

95. Ngẫu tác

Tác giả: Trần Tung 陳嵩 
偶作
夢起還須仔細看
投機觸目莫瞞肝
縱饒五眼通明在
未免呼鐘壅作看


Mộng khởi hoàn tu tử tế khan 
Đầu cơ xúc mục mạc man can 
Túng nhiêu ngũ nhãn thông minh tại 
Vị miễn hô chung úng tác khan

Dịch nghĩa: 
Chợt hứng làm thơ 
Tan giấc mơ trở dậy cần xem lại cẩn thận, 
Phải hợp thời đúng lúc chứ đừng lờ mờ; 
Dù rằng năm mắt sáng suốt đấy, 
Nhưng chưa khỏi gọi cái chuông là vò đựng rượu.

Dịch thơ: 
Mơ dậy còn nên xét rõ rành, 
Hợp thời đúng lúc cốt tinh anh; 
Mặc cho năm mắt thông minh đấy, 
Không khỏi nhìn chuông hoá hũ sành. 
                                                Đỗ Văn Hỷ 

II 
Tan mơ cần xét rõ rành, 
Hợp thời đúng lúc chớ đành lơ mơ; 
Thông minh năm mắt có thừa, 
Coi chừng chuông bảo là vò cũng nên. 
                                             Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Năm mắt (The five kinds of vision): chỉ năm cấp độ thị giác của loài người:


1. Nhục nhãn (Human eye): mắt thịt của chúng sinh; 
2. Thiên nhãn (Deva eye): mắt người cõi trời; 
3. Tuệ nhãn (The eye of Wisdom): mắt những người đã tu tới bậc Thanh Văn, Duyên Giác; 
4. Pháp nhãn (The eye of Dharma): mắt người đã tu tới Bồ Tát; 
5. Phật nhãn (Buddha Vision): mắt người đã tu thành Phật.




Jul 25, 2013

Đề tinh xá

Tác giả: Trần Tung 陳嵩

題精舍
踏著關頭未剎那
縱橫放筆札伽陀
年年筆嘴無端甚
三界如來不奈何


Đạp trước quan đầu vị sát na 
Tung hoành phóng bút trát già đà 
Niên niên bút chuỷ vô đoan thậm 
Tam giới Như Lai bất nại hà

Dịch nghĩa: 
Đề tinh xá 
Dẫm chân tới đầu cổng chưa được giây lát, 
Buông lời dọc ngang viết nên bài kệ; 
Năm gần đây ngòi bút bỗng trở nên hờ hững, 
Như Lai ở ba giới cũng chả biết làm thế nào.

Dịch thơ: 
Bước tới cổng chùa chửa phút giây, 
Dọc ngang lời kệ viết xong ngay; 
Gần đây ngòi bút thờ ơ quá, 
Tam giới Như Lai cũng khó hay. 
                                         Đỗ Văn Hỷ 

II 
Tới cổng chưa được phút giây, 
Buông lời ngang dọc viết bài kệ ngay; 
Hững hờ ngòi bút gần đây, 
Như Lai tam giới chẳng hay thế nào? 
                                             Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Tinh xá, cũng như Phật xá tức là nhà chùa. 
Giây lát: dịch chữ sát-na (tiếng Phạn là Ksna) nghĩa là một khoảng thời gian thoáng qua mau lẹ vô cùng. 
Như Lai ở ba giới: Như Lai tức là Phật Thế Tôn, một trong 10 danh hiệu của Phật. 
Ba giới: ba cõi, một thuật ngữ của đạo Phật, chỉ nơi ở của chúng sinh chưa hoàn toàn siêu thoát. Đó là 
- Dục giới: thế giới của chúng sinh còn phải ăn uống và nhiều ham muốn; 
- Sắc giới: thế giới của các tiên, không còn ham muốn, ăn uống nhưng còn hình thể; 
- Vô sắc giới: thế giới các tiên không còn hình thể, chỉ còn tâm thức.


Jul 24, 2013

Phóng ngưu

Tác giả: Trần Tung 陳嵩


放牛
偶向溈山得弟鄰
荒蕪甘作牧牛人
國王德澤寬如海
隨分些些水草春

Ngẫu hướng Quy Sơn đắc đệ lân 
Hoang vu cam tác mục ngưu nhân 
Quốc vương đức trạch khoan như hải 
Tuỳ phận ta ta thuỷ thảo xuân

Dịch nghĩa: 
Thả trâu 
Tình cờ hướng về làng xóm của Quy Sơn mà tìm được mái nhà, 
Cam làm người chăn trâu trong chốn hoang vu; 
Ơn đức quốc vương rộng như bể, 
Nhưng xin cứ tuỳ phận với chút ít cỏ nước mùa xuân.

Dịch thơ: 
I
Quy Sơn xóm nọ bỗng quay sang, 
Cam nhận chăn trâu chốn nội hoang; 
Ơn đức quốc vương như biển cả, 
Riêng vui cỏ suối với hoa ngàn. 
                                        Đỗ Văn Hỷ 

II
Quay về làng xóm Quy Sơn, 
Chăn trâu trong chốn đồng hoang tháng ngày; 
Quốc vương ân đức cao dày, 
Xin vui với nước, với cây ít nhiều.
                                                          Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Chăn trâu: sách Truyền đăng lục chép Hòa thượng Đại An nói rằng: “An này ở Quy Sơn đã 30 năm, một hôm thấy con trâu thiến chạy vào vào bụi cỏ, dắt nó về nuôi, hễ nó ăn lúa thì ta quất, lâu dần nó chịu nghe ta. Đến nay thành con trâu trắng toát như sương, thường ở ngay trước mặt, đuổi cũng không đi”. Tác giả mượn điển này để nói tâm sự của mình.




Jul 23, 2013

Tâm vương

Tác giả: Trần Tung 陳嵩
心王
心王無相亦無形
眼自驪珠也不明
欲識這般真面目
呵呵日午打三更
Tâm vương vô tướng diệc vô hình 
Nhãn tự ly châu dã bất minh 
Dục thức giá ban chân diện mục 
Ha ha nhật ngọ đả tam canh

Dịch nghĩa: 
Vua tâm 
Vua tâm không tướng cũng không hình, 
Dù mắt sáng như hạt châu dưới cằm con rồng cũng không thấy được; 
Muốn biết được "khuôn mặt thực" của nó, 
A ha! Giữa trưa cứ ngủ thẳng tới canh ba.

Dịch thơ: 
Không hình, không tướng "chúa tâm" ta, 
Mắt dẫu ly châu đố nhận ra; 
Muốn biết đâu là "khuôn mặt thực", 
Giữa trưa ngủ tít đến canh ba. 
                                                Huệ Chi 

II 
“Chúa tâm” không tướng không hình, 
Mắt như ngọc sáng chẳng hình dung ra; 
"Khuôn mặt thực" muốn nhận ra, 
Giữa trưa ngủ đến canh ba một lèo. 
                                                Đỗ Quang Liên 



Chú thích: Tâm là chúa tể của cảm giác, tình ý, bao gồm tám thức (The eight kinds of consciousness) gọi là Bát thức tâm vương: 
1. Nhãn thức (Eye consciousness)
2. Nhĩ thức (Ear consciousness)
3. Tị thức (Nose consciousness)
4. Thiệt thức (Tongue consciousness)
5. Thân thức (Body consciousness)
6. Ý thức (Mental consciousness)
7. Mạt na thức (Subconscious-mind): cầm bắt lấy chỗ thấy, biết 
8. A lại da thức (Foundation consciousness): tâm thức gồm thâu tất cả các thức trên.

Jul 22, 2013

Lưu biệt thi

Tác giả: Nguyên sứ Hoàng Thường 元使黄裳
留別詩 
江岸梅花正白
船頭細雨斜飛
行客三冬北去
將君一棹南歸

Giang ngạn mai hoa chính bạch 
Thuyền đầu tế vũ tà phi 
Hành khách tam đông Bắc khứ 
Tướng quân nhất trạo Nam quy

Dịch nghĩa:
Thơ lưu biệt 
Trên bờ sông hoa mai đang nở trắng,
Trước đầu thuyền mưa nhỏ chênh chếch bay;
Giữa ba đông khách đi về Bắc,
Một mái chèo Tướng quân trở lại Nam.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên
I
Trên bến, hoa mai đua trắng, 
Đầu thuyền, mưa bụi tạt ngang; 
Hành khách ba người về Bắc, 
Tướng quân một mái quay Nam. 

II 
Bên bờ trắng xóa hoa mai, 
Xiên xiên mưa bụi bay bay đầu thuyền; 
Khách về đất Bắc ngoái nhìn, 
Tướng quân với một con thuyền về Nam.

Nghi vấn:
Sách Nam Ông mộng lục 南翁夢錄 của Hồ Nguyên Trừng do Ưu Đàm, La Sơn soạn dịch, chú giải. Nguyễn Đăng Na giới thiệu, nhà xuất bản Hà Nội 1999 ghi: Mạc Ký đã làm bài thơ Lưu biệt trên. Quyển Thơ văn Lý Trần tập II, chủ biên Nguyễn Huệ Chi, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học, nhà xuất bản Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1988 ghi ở trang 719 cũng như vậy (chỉ khác chữ (Đông) thành (Danh) và chú thích: Đầu đề 送使吟 (Tống sứ ngâm) do người soạn thêm, và rút từ sách Nam Ông mộng lục.

Hai quyển sách trên dịch đều nhầm vì bản chữ Hán không có dấu chấm, phẩy, từ đoạn 裳其歡之。至界,上留別詩云 người phiên dịch đã thêm dấu Chấm sau chữ 歡之 và viết hoa chữ và dịch là: “Khi tới biên giới, Mạc Ký đã làm bài thơ Lưu biệt như sau” (Người được tặng thơ hóa thành người làm thơ tặng)

Có một điều rất lạ là Thơ văn Lý Trần tập III, NXB Khoa học xã hội 1978 (trước tập II 10 năm), ở trang 738, tác giả Tuấn Nghi dịch bài "Quý khách tương hoan" vẫn chấm câu như thế, và dịch thì ghi: “”Đến biên giới, có thơ lưu biệt rằng”

Tôi, Đỗ Quang Liên, người đã dịch trên 1000 bài thơ Tứ tuyệt ra lục bát, xin chữa lại là:
“Thường rất vui thích, đến biên giới, Thường làm thơ lưu biệt rằng”

Tôi đặt đầu đề là Lưu biệt thi và tác giả là Nguyên sứ Hoàng Thường.




Jul 19, 2013

Lớp mới cho những người bắt đầu học chữ Hán Nôm

Xin thông báo:

Bắt đầu từ ngày thứ Bảy tuần tới,  27/07/2013, Tổ Hán Nôm Lạc Đạo sẽ mở lớp Hán Việt mới cho những người bắt đầu học chữ Hán Nôm. 

Thời gian học từ 08 giờ đến 10 giờ, sáng thứ Bảy hàng tuần.
 Địa điểm: 
Tổ Hán Nôm Lạc Đạo, nhà số 7, ngõ 60, Phố Nhân Hòa, Phường Nhân Chính, Quận Thanh Xuân, Thành phố Hà Nội.

Lớp không thu học phí.

Học viên đăng ký tham gia cần chuẩn bị 01 ảnh (dạng ảnh thẻ) cỡ 4x6

Liên hệ: hannomlacdao@gmail.com   

Xin mời Quý vị yêu thích chữ Hán Nôm tham gia! 

Trân trọng,

TỔ HÁN NÔM LẠC ĐẠO

90. Chí đạo vô nan

Tác giả: Trần Tung 陳嵩
至道無難
至道無難莫道難
回頭轉腦覺瞞肝
卻向求心漸
大似粘魚上竹竿


Chí đạo vô nan mạc đạo nan 
Hồi đầu chuyển não giác man can 
Tương tâm khước hướng cầu tâm tiệm 
Đại tự niêm ngư thướng trúc can

Dịch nghĩa: 
Đạo lớn không khó 
Đạo lớn không khó đừng nói khó, 
Quay đầu, động não, cảm thấy mờ mịt; 
Nếu lại đem lòng mình hướng vào tim ma quỷ ở trong lòng, 
Thì có khác gì con cá măng nhảy lên ngọn trúc.

Dịch thơ: 
Đạo lớn khó gì đừng nói khó, 
Bần thần vặn óc với quay đầu; 
Tâm kia, lại muốn tìm ra quỷ, 
Cá vọt cành tre, có khác đâu. 
                                      Huệ Chi 

II 
Đạo lớn đâu có khó gì, 
Quay đầu, vặn óc, thấy chi mịt mờ; 
Muốn tìm quỷ giữa tâm ta, 
Cá măng mà vượt ngọn tre, khác nào!


Chú thích: 
Tâm tiệm: ma quỷ ở trong lòng, cách nói hình ảnh chỉ sự câu chấp trong ý tưởng người tu hành, coi mọi hiện tượng là có và thân mình là có, chính là một sự câu chấp. 
Cá măng nhảy lên ngọn trúc: khi Mai Thánh Du phụng chiếu tu chính Đường thư, người vợ nói: tôi xem bước đường làm quan của ông chỉ như cá măng nhảy lên ngọn trúc rồi lại rơi xuống nước mà thôi.





Jul 18, 2013

Giản để tùng

Tác giả: Tuệ trung thượng sĩ 慧中上士
澗底松
最愛青松種幾年
休嗟地勢所居偏
棟樑未用人休怪
野草閒花滿目前

Tối ái thanh tùng chủng kỷ niên 
Hưu ta địa thế sở cư thiên 
Ðống lương vị dụng nhân hưu quái 
Dã thảo nhàn hoa mãn mục tiền

Dịch nghĩa: 
Cây thông dưới khe 
Rất yêu cây thông xanh trồng mấy năm nay, 
Đừng thở than ở vào địa thế hiu quạnh; 
Tài rường cột chưa được dùng, người đời chớ lấy làm lạ, 
Nơi đây cỏ nội hoa nhàn đầy cả trước mắt.

Dịch thơ: 
Mấy năm yêu dấu gốc tùng xanh, 
Đừng thở than rằng đất vắng tanh; 
Rường cột chưa dùng, người chớ lạ, 
Hoa nhàn, cỏ nội khắp chung quanh. 
                                  Đào Phương Bình 

II 
Thông xanh trồng đã lâu năm, 
Chẳng tham thế đất ở vùng dưới sâu; 
Chưa dùng rường cột, ngại đâu, 
Hoa rừng, cỏ nội tươi màu chung quanh. 
                                             Đỗ Quang Liên 


Chú thích:  
Điển cố: Lương đống tức Rường cột, thường được dùng theo nghĩa: kẻ sỹ có tài năng lớn, làm chỗ dựa cho triều đình.




Jul 17, 2013

Xuất trần

Tác giả: Tuệ trung thượng sĩ 慧中上士
出塵
曾為物慾役勞軀
擺落塵囂世外遊
撒手那邊超佛祖
一回抖擻一回休

Tằng vi vật dục dịch lao khu 
Bãi lạc trần hiêu thế ngoại du
Tán thủ ná biên siêu Phật tổ 
Nhất hồi đẩu tẩu nhất hồi hưu

Dịch nghĩa: 
Ra khỏi bụi trần 
Từng bị vật dục sai khiến làm mệt cái thân, 
Thoát khỏi bụi trần ồn ào mà rong chơi ngoài cõi thế; 
Buông tay sang bên kia, vượt qua Phật tổ, 
Mỗi lần gột rửa là mỗi lần nghỉ ngơi.

Dịch thơ: 
Vật dục hành cho xác mệt nhoài, 
Ruổi rong thoát quách chốn trần ai; 
Buông tay sang đấy, ta siêu Phật, 
Gột rửa bao hồi, bấy nghỉ ngơi.   
                                               Huệ Chi 

II 
Vật dục hành xác mệt nhoài, 
Rong chơi, thoát quách trần ai bụi lầm; 
Tay buông, siêu Phật, niệm thần, 
Một lần gột rửa, một lần an vui 
                                      Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Gột rửa: dịch ý chữ Đẩu tẩu, là thuật ngữ tiếng Phạn được phiên âm, cũng phiên âm là Đầu đà, có nghĩa là gột rửa sạch phiền não trong lòng. Đây là một thể thức tu hành gồm 13 khoản, chia ra mỗi năm 2 kỳ, từ 15/1 đến 15/3 và 15/8 đến 15/10 âm lịch.