Jan 30, 2014

225. Đề đông sơn tự

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
題東山寺
雲似青山山似雲
雲山長與老僧親
自從圓公去世後
天下釋子空無人

Vân tự thanh sơn sơn tự vân
Vân sơn trường dữ lão tăng thân
Tự tòng viên công khứ thế hậu
Thiên hạ thích tử không vô nhân

Dịch nghĩa: 
Đề chùa Đông Sơn 
Mây giống núi xanh, núi xanh giống mây,
Mây và núi mãi mãi gần gũi với sư già;
Từ sau khi Viên Công qua đời, 
Thích tử trong thiên hạ không còn ai nữa.

Dịch thơ: 
Núi như mây biếc, mây như núi, 
Mây núi cùng sư bạn một đời;
Từ thuở Viên công lìa cõi thế,
Dưới trần Thích tử chẳng còn ai. 
                                              Huệ Chi 

II 
Núi, mây đượm một màu xanh, 
Mãi luôn thắm thiết quấn quanh Sư già; 
Viên Công từ khuất nẻo xa, 
Không ai thiên hạ còn là chân tu. 
                                                          Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Đông Sơn: Việt âm thi tập ghi: chùa làm từ thời Lý trên núi Chương Sơn, huyện Ý Yên, nay thuộc Hà Nam. Sách An Nam chí lược thì ghi: Đông Sơn cùng với Bình Sơn, Yên Tử sơn và Thiên Kỳ sơn đều là danh thắng nước ta. 
- Viên Công: có lẽ tác giả muốn chỉ vào Viên Chiếu, một vị cao tăng đời Lý.



Jan 29, 2014

Vãn quán viên huệ nhẫn quốc sư

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
挽觀圓惠忍國師
夕陽樹下暫維舟
歷歷江山記舊遊
攜履西歸何處問
大龍港口水空流

Tịch dương thụ hạ tạm duy chu
Lịch lịch giang sơn ký cựu du
Huề lý tây quy hà xứ vấn
Đại long cảng khẩu thuỷ không lưu

Dịch nghĩa: 
Viếng quốc sư Huệ Nhẫn ở chùa Quán Viên 
Chiều tà, tạm buộc thuyền dưới cây,
Non sông vẫn còn đó, nhớ cuộc chơi cũ;
Người đã mang dép về Tây Thiên, biết đâu mà hỏi,
Cửa khẩu Đại Long nước những trôi hoài.

Dịch thơ: 
Cây chiều rủ bóng buộc thuyền thoi,
Đây cảnh năm nào đã ghé chơi;
Dép trẩy Tây Thiên, mờ mịt dấu,
Đại Long nước cứ lững lờ trôi. 
                    Đào Phương Bình - Nam Trân 

II 
Chiều tà, thuyền buộc gốc cây, 
Non sông vẫn cũ nhớ ngày chơi xưa; 
Về Tây, cầm dép – đâu dò? 
Đại Long dòng nhánh nước lờ lững trôi. 
                                                   Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Chùa Quán Viên: có lẽ thuộc huyện An Hòa. 
- Cửa Đại Long: theo Việt âm thi tập, thì núi Đại Long thuộc huyện An Hào. Sách Đại Nam nhất thống chí cho biết: An Hòa là tên huyện do bọn thống trị nhà Minh đặt, vốn tên là Yên Hưng, thuộc lộ Hải Đông, nay thuộc tỉnh Quảng Ninh. 
- Xách dép về Tây: Bồ Đề Đạt Ma, tổ thứ 18 đạo Phật bên Ấn Độ và là tổ thứ nhất phái Thiền Tông Trung Hoa, mất năm 528, thi hài chôn ở núi Hùng Nhĩ. Khi Tống Vân phụng mệnh vua Ngụy đi sứ Tây Vực về, thấy Đạt ma xách chiếc dép đi về phía Tây. Vân về tâu với vua, vua Ngụy sai mở quan ra xem thì chỉ còn một chiếc dép.




Jan 28, 2014

Hạnh ngộ

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
幸遇
平生曾蓄一張琴
埋沒塵埃歲月深
幸遇伯牙高妙手
更教山水嗣徽音

Bình sinh tằng súc nhất trương cầm
Mai một trần ai tuế nguyệt thâm
Hạnh ngộ bá nha cao diệu thủ
Cánh giao sơn thuỷ tự huy âm

Dịch nghĩa: 
May gặp 
Đời ta từng có một cây đàn, 
Chôn vùi đã lâu ngày trong bụi trần; 
May gặp được tay cao diệu của Bá Nha,
Lại khiến cho tiếng đàn nối được lời nước non.

Dịch thơ: 
Đời ta từng sẵn một cây cầm, 
Cát bụi chôn vùi bao tháng năm; 
May gặp Bá Nha sành khúc điệu, 
Nối lời non nước tạ tri âm. 
                              Băng Thanh

II  
Nơi ta từng có cây cầm, 
Bụi trần phủ lấp tháng năm nhạt nhòa; 
Tay cầm may gặp Bá Nha, 
Nước non lại nối điệu ca thuở nào… 
                                                  Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Bài này vua Trần Minh Tông đọc cho sư Phổ Tuệ nghe, tỏ bày lòng mộ Phật bấy lâu mà chưa gặp được bậc cao tăng. Phổ Tuệ tức Pháp Loa, vị tổ thứ 2 phái Trúc Lâm. 
- Bá Nha, người đánh đàn hay. Chung Tử Kỳ, người thời Chiến Quốc, rất sành âm luật, là bạn tri kỷ của Bá Nha. Nghe Bá Nha đánh đàn, ông biết trong lòng Bá Nha đang nghĩ đến non cao hay nước chảy. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha bỏ đàn không gảy nữa, cho là không còn ai là tri kỷ, tri âm.



Jan 27, 2014

Tặng trần bang cẩn họa tượng tịnh thi

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
贈陳邦謹畫象并詩
形容骨格耐冬寒
相貌亭亭亦可觀
風流一段渾描盡
心裡難描耿耿丹

Hình dung ct cách ni đông hàn
Tướng mo đình đình dic kh quan
Phong lưu nht đon hn miêu tn
Tâm lý nan miêu cnh cnh đan

Dịch nghĩa: 
Tặng Trần Bang Cẩn bức chân dung kèm theo bài thơ 
Hình dung cốt cách chịu đựng được giá lạnh mùa đông,
Tướng mạo đường đường cũng đáng xem;
Mọi vẻ phong lưu đều vẽ được hết,
Chỉ khó vẽ tấm lòng son chói sáng mà thôi.

Dịch thơ: 
I
Thân hình rắn rỏi quen sương tuyết,
Tướng mạo khôi ngô ngó cũng giòn;
Mọi vẻ phong lưu đều tả hết,
Mà chưa tả được tấm lòng son. 
                                       Nam Trân 

II 
Kiên cường chẳng ngại tuyết sương, 
Đường hoàng tướng mạo xem chừng dễ coi; 
Phong lưu, nét vẽ tuyệt vời, 
Khó miêu tả nổi rạng ngời lòng son. 
                                             Đỗ Quang Liên 


Chú thích:
- Trần Bang Cẩn làm đến chức Đại Hành Khiển, Thương thư, Tả bộc xạ đời vua Trần Minh Tông.
- Theo Đại Việt sử ký toàn thư, bài thơ này vua Minh Tông làm vào mùa hạ năm Giáp Tý (1324).




Jan 25, 2014

Cúc

Tác giả: Trần Mạnh (Minh Tông 1300 – 1357) 陳奣 明宗
吟入黃花酒可傾
菊籬秋色晚猶馨
古今人物知多少
一滴南山未了清

Ngâm nhập hoàng hoa tửu khả khuynh
Cúc lý thu sắc vãn do hinh
Cổ kim nhân vật tri đa thiểu
Nhất trích nam sơn vị liễu thanh

Dịch nghĩa: 
Hoa cúc 
Vịnh tới hoa cúc thì có thể nghiêng bầu chuốc chén,
Giậu cúc vào lúc sắc thu đã muộn vẫn còn thơm; 
Nhân vật nổi tiếng xưa nay biết bao người,
Chỉ một giọt thôi, vẫn chưa hiểu rõ được câu thơ có hai chữ "núi Nam".

Dịch thơ: 
Ngâm thơ chuốc chén rượu hoa vàng,
Giậu cúc thu già vẫn ngát hương;
Kim cổ biết bao nhân vật nhỉ,
Nam sơn một giọt vẫn chưa tường. 
                      Đào Phương Bình – Nam Trân

II 
Ngâm thơ lại giục nghiêng bầu, 
Cúc vàng hương đến cuối thu vẫn nồng;
Biết bao nhân vật tây đông, 
Thấu chăng ai một giọt lòng “Nam Sơn”. 
                                                       Đỗ Quang Liên 



 



Jan 24, 2014

220. Trùng đáo quỳnh lâm bích động am lưu đề

Tác giả: Nguyễn Sưởng 阮昶 
重到琼林碧洞庵留題
花表風吹騎去鶴
草廬雲護卧崗龍
蒼生一念堪惆悵
月冷琼林半夜鐘

Hoa biểu phong xuy kỵ khứ hạc
Thảo lư vân hộ ngoạ cương long 
Thương sinh nhất niệm kham trù trướng 
Nguyệt lãnh quỳnh lâm bán dạ chung

Dịch nghĩa: 
Đề thơ khi trở lại am Bích Động ở Quỳnh Lâm 
Gió thổi cột hoa biểu, hạc cưỡi đã bay đi,
Mây che mái nhà tranh, rồng nằm ở trên gò;
Mỗi lần nghĩ tới dân chúng lại ngậm ngùi,
Ánh trăng phả lạnh tiếng chuông chùa Quỳnh Lâm lúc nửa đêm.

Dịch thơ: 
Gió vờn trụ đá, hạc lên tiên,
Mây phủ nhà tranh, rồng nghỉ yên;
Chợt nghĩ đến dân rầu khúc ruột,
Chuông Quỳnh lạnh thấm ánh trăng đêm. 
                                                    Phạm Tú Châu 

II 
Gió vờn trụ đá, hạc bay, 
Mây che am cỏ, đồi say rồng nằm; 
Thương dân lòng dạ băn khoăn, 
Sương đêm thấm lạnh chuông rền Quỳnh Lâm. 
                                                                 Đỗ Quang Liên.


Chú thích: 
- Quỳnh Lâm, chùa do nhà sư Không Lộ đời Lý xây dựng, ở xã Hà Lôi, Đông Triều, Quảng Ninh ngày nay. Nơi đây, vua Trần Thái Tông nhiều lần đến thăm. 
- Hoa biểu: tên gọi trụ đá ghi công trạng hoặc dựng trước phần mộ. Lúc này, Trần Quang Triều đã mất. 
- Sách Hán Vũ ghi: xưa, Phí Văn Vi tu tiên đắc đạo, bèn cưỡi hạc bay đi, ý nói Trần Quang Triều đã mất.
- Khổng Minh khi chưa ra giúp Lưu Bị, ẩn dật trong ngôi nhà tranh trên gò Ngọa Long, hiệu là Ngọa Long tiên sinh. Tác giả mượn điển này để ví Trần Quang Triều với Gia Cát Lượng.





Jan 22, 2014

Tống Vô Sơn Ông Văn Huệ Vương xuất sơn bái tướng

Tác giả: Nguyễn Sưởng 阮昶
送無山翁文王出山拜相
松聲喝道虎前驅
龍起南陽渴望蘇
借問雲臺高幾許
要添宰相出山圖

Tùng thanh hát đạo hổ tiền khu
Long khởi nam dương khát vọng tô
Tá vấn vân đài cao kỷ hứa
Yếu thiêm tể tướng xuất sơn đồ

Dịch nghĩa: 
Tiễn Vô Sơn Ông Văn Huệ Vương rời núi nhận chức tể tướng 
Thông reo hò dẹp lối, hổ đi trước dẫn đường, 
Rồng trỗi dậy từ Nam Dương, lòng người khát mong được sống lại; 
Ướm hỏi đài mây cao độ bao nhiêu? 
Cần họa thêm bức tranh "Tể tướng rời núi".

Dịch thơ:
Cọp mở đường ra, thông hát đưa,
Nam Dương rồng dậy thoả mong chờ;
Đài mây ướm hỏi cao bao trượng,
"Tể tướng rời non" tranh vẽ chưa? 
                                                Trần Lê Văn 

II 
Thông reo tiễn, cọp mở đường, 
Khát mong rồng dậy Nam Dương, dân nhờ; 
Đài mây thêm bức họa đồ, 
Rời non, Tể Tướng đi ra giúp đời. 
                                              Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Vô Sơn Ông là hiệu, Văn Huệ Vương là tước của Trần Quang Triều. Câu 2 ý nói, Trần Quang Triều ra khỏi núi nhận chức Tể Tướng như Gia Cát Khổng Minh (hiệu Ngọa Long) rời đất Nam Dương ra giúp Lưu Bị, củng cố nhà Thục Hán, đáp ứng lòng mong mỏi của dân. 
- Chữ Tô, lấy ý ở trong Kinh thư câu: “ 徯我後后來其蘇 - Hề ngã hậu hậu lai kỳ tô” nghĩa là Chờ vua ta, vua ta đến ta sẽ được sống lại. 
- Đài mây (vân đài): nơi Minh Đế, đời Đông Hán, cho treo tranh 28 vị công thần để ghi công họ đã giúp vua cha Quang Vũ đánh dẹp Vương Mãng, dựng lại cơ đồ nhà Hán.




Jan 21, 2014

Bạch Đằng giang

Tác giả: Nguyễn Sưởng 阮昶
白藤江
鯨觀如山草木春
海潮洶洶石嶙峋
誰知萬古重興業
半在關河半在人

Kình quán như sơn thảo mộc xuân 
Hải triều húng húng thạch lân tuân 
Thuỳ tri vạn cổ trùng hưng nghiệp 
Bán tại quan hà bán tại nhân

Dịch nghĩa: 
Sông Bạch Đằng 
Mồ chôn quân thù cao như núi, cây cỏ xanh tươi, 
Nước thuỷ triều ngoài biển ầm ầm, đá núi lởm chởm;
Mấy ai biết sự nghiệp muôn thuở đời Trùng Hưng,
Một nửa nhờ địa thế núi sông, một nửa do con người.

Dịch thơ: 
Mồ thù như núi, cỏ cây tươi,
Sóng biển gầm vang, đá ngất trời;
Sự nghiệp Trùng Hưng ai dễ biết,
Nửa do sông núi, nửa do người. 
                                 Đào Phương Bình 

II  
Cỏ trùm mồ giặc xanh rờn, 
Sóng triều gầm réo, núi sông chập trùng,
Muôn đời sự nghiệp Trùng Hưng,
Nửa nhờ thế hiểm, nửa công con người. 
Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Đời xưa, mỗi khi thắng trận, người ta chất xác giặc lại một nơi, rồi đắp đất thành gò cao để ghi chiến công, gọi là Kình quán. 
- Trùng Hưng: niên hiệu vua Trần Nhân Tông từ 1285 đến 1293, đây là thời kỳ lịch sử oanh liệt, đánh dấu hai lần chiến thắng giặc xâm lược Nguyên Mông.

Jan 20, 2014

Giang hành

Tác giả: Nguyễn Sưởng 阮昶
江行
岸轉樹斜出
溪深花倒開
晚霞孤鳥沒
曉雨片帆來

Ngạn chuyển thụ tà xuất 
Khê thâm hoa đảo khai 
Vãn hà cô điểu một 
Hiểu vũ phiến phàm lai

Dịch nghĩa: 
Đi trên sông 
Khúc sông quanh cây nghiêng nghiêng hiện ra,
Suối sâu, hoa nở ngược dưới nước;
Chim lẻ khuất trong ráng chiều,
Buồm lướt dưới mưa buổi sáng sớm.

Dịch thơ: 
Cây uốn nghiêng bờ lượn,
Hoa cười ngược suối sâu; 
Chim chìm trong ráng muộn, 
Buồm lướt sớm mưa mau. 
                              Phạm Tú Châu 

II 
Bờ quanh, cây ngả nghiêng nghiêng, 
Hoa cười nở ngược dưới ghềnh nước sâu, 
Chim côi lẩn giữa ráng chiều, 
Sớm mai buồm lướt cánh diều trong mưa. 
                                                          Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Nguyễn Sưởng hiệu là Thích Liên, sống cùng thời với Trần Quang Triều (1286-1325) và mất sau Quang Triều. Ông tham gia thi xã Bích Động do Trần Quang Triều sáng lập. Quang Triều là người tri kỷ được ông đánh giá cao, kính trọng và yêu mến nhất. Trong 16 bài thơ còn lại của ông đã có đến 5 bài dành cho Quang Triều. Trong thơ, ông rất ít nói về mình, dành nhiều tình cảm cho thiên nhiên. 
Thơ ông giản dị, trong sáng, giàu tình cảm và trau chuốt. Đó cũng là đặc điểm của của thơ đời Trần nói chung, và của thi xã Bích Động nói riêng.



Jan 17, 2014

215. Hóa Châu tác

Tác giả: Trương Hán Siêu 張漢超
化州作
玉京回首五雲深
零落殘生苦不禁
已辨荒郊埋病骨
海天草木共愁吟 

Ngọc kinh hồi thủ ngũ vân thâm
Linh lạc tàn sinh khổ bất câm
Dĩ biện hoang giao mai bệnh cốt
Hải thiên thảo mộc cộng sầu ngâm


Dịch nghĩa: 
Thơ làm ở Hóa Châu
Ngoảnh đầu lại Ngọc Kinh, năm mây thăm thẳm,
Kiếp sống tàn điêu linh xơ xác, khổ không chịu nổi;
Đã sửa soạn chốn hoang vu để chôn vùi nắm xương ốm yếu,
Cỏ cây nơi trời biển xa xôi cùng ta ngâm thơ sầu.

Dịch thơ: 
Ngoảnh lại năm mây phủ đế đô,
Hồn tàn bao xiết khổ bơ vơ;
Thôi đành cõi rậm vùi xương bệnh,
Cây cỏ chung sầu cũng hoạ thơ. 
                                            Hoa Bằng

II 
Ngoảnh đầu mây chắn đế đô, 
Lênh đênh nỗi khổ bơ vơ không lường; 
Thân tàn cõi rậm vùi xương, 
Cỏ cây, trời biển ngâm chung thơ sầu. 
                                                        Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Việt âm thi tập chú: Lúc đó ông làm chức Chiêu dụ đại sứ Hóa Châu, nay là đất thuộc tỉnh Thừa Thiên – Huế. Có thể xác định đây là bài thơ của Trương Hán Siêu làm trong những ngày cuối ở Hóa Châu, giữa một cơn bệnh nặng, sau đó ông được lệnh trở ra Bắc, rồi mất.



Jan 16, 2014

Cúc hoa bách vịnh kỳ tứ

Tác giả: Trương Hán Siêu 張漢超
菊花百詠其四
去年今日有花多
對客愁無酒可
世事相違每如此
今朝有酒卻無花

Khứ niên kim nhật hữu hoa đa
Ðối khách sầu vô tửu khả xa
Thế sự tương vi mỗi như thử
Kim triêu hữu tửu khước vô hoa

Dịch nghĩa: 
Vịnh hoa cúc (bài 4) 
Ngày này năm ngoái hoa đang nở rộ,
Những buồn vì không có rượu để cùng khách thoả thuê;
Việc đời thường vẫn trái ngược nhau như thế,
Hôm nay có rượu lại không có hoa.

Dịch thơ:
Ngày này năm ngoái hoa đương rộ, 
Không rượu, ngồi suông khách với ta; 
Trái ngược, việc đời thường vẫn thế, 
Hôm nay có rượu, lại không hoa. 
                             Nhóm nghiên cứu văn học Lê Quý Đôn. 

II 
Năm xưa, ngày ấy nhiều hoa,
Khách vào, buốn thiếu rượu ra mời chào; 
Việc đời, trái ngược lắm sao, 
Sớm nay sẵn rượu, thì nào có hoa! 
                                                    Đỗ Quang Liên 




Jan 15, 2014

Cúc hoa bách vịnh kỳ tam

Tác giả: Trương Hán Siêu 張漢超
Dịch thơ: Huệ Chi

菊花百詠其三
重陽時節今朝是
故國黃花開未開
卻憶琴樽前日雅
幾回搔首賦歸來

Trùng dương thời tiết kim triêu thị
Cố quốc hoàng hoa khai vị khai
Khước ức cầm tôn tiền nhật nhã
Kỷ hồi tao thủ phú quy lai

Dịch nghĩa: 
Vịnh hoa cúc (bài 3)
Sáng nay là tiết Trùng Dương,
Không hiểu hoa vàng nơi quê cũ đã nở chưa?
Lại nhớ tới thú vui tao nhã uống rượu gảy đàn ngày trước,
Mấy lần gãi đầu làm bài thơ "quy lai".

Dịch thơ: 
Sớm nay lại đến tết Trùng Dương, 
Hoa nở hay chưa? – chốn cố hương; 
Nhớ thú rượu đàn vui thuở trước, 
Vò đầu mấy bận viết về vườn. 

II 
Sớm nay vừa tiết trùng dương,
Chẳng hay quê cũ hoa vàng nở chưa?
Rượu đàn chạnh nhớ thú xưa,
Vò đầu, mấy bận làm thơ "đi về".


Chú thích: 
- Trùng Dương, ngày 9 tháng 9 âm lịch. Âm dương gia gọi số 9 là số dương, mồng 9 tháng 9 là hai sô dương nên gọi là Trùng Dương. 
- Quy lai: Đào Tiềm đời Tấn (Trung Quốc) khi bỏ quan về nhà có làm bài “Quy khứ lai từ”, nói lên tình cảm cao khiết của người ở ẩn đối với ruộng vườn và nỗi nhọc nhằn của kẻ làm quan. Ở đây, Trương Hán Siêu có ý nói mình cũng muốn nghỉ quan.


Jan 14, 2014

Cúc hoa bách vịnh kỳ nhị

Tác giả: Trương Hán Siêu 張漢超
菊花百詠其二
一秋多雨又多風
豈意秋花尚滿叢
應是天工憐冷落
故留寒蕋伴衰翁

Nhất thu đa vũ hựu đa phong
Khởi ý thu hoa thượng mãn tùng
Ưng thị thiên công liên lãnh lạc
Cố lưu hàn nhị bạn suy ông

Dịch nghĩa: 
Vịnh hoa cúc (bài 2)
Cả mùa thu nhiều mưa lại nhiều gió, 
Đâu ngờ hoa thu vẫn đầy khóm;
Đúng là thợ trời thương kẻ quạnh hiu,
Nên dành lại loài hoa chịu được rét để làm bạn với ông già ốm yếu.

Dịch thơ: 
I
Trời thu lắm gió lại nhiều mưa,
Khóm trĩu hoa thu thật chẳng ngờ.
Tạo hoá, phải chăng thương quạnh vắng,
Dành bông hoa lạnh bạn già nua. 
                                       Đào Phương Bình 

II
Suốt mùa lắm gió nhiều mưa, 
Vẫn đầy từng khóm hoa thu – nào ngờ;
Trời thương quạnh vắng vùng xa, 
Dành hoa làm bạn ông già ốm o. 
                                          Đỗ Quang Liên




Jan 13, 2014

Cúc hoa bách vịnh kỳ nhất

Tác giả: Trương Hán Siêu 張漢超
菊花百詠其一
雨餘開圃移根植
霜後巡籬摘蕊收
莫道幽人閒懶散
一年忙處是深秋

Vũ dư khai phố di căn thực 
Sương hậu tuần ly trích nhị thu
Mạc đạo u nhân nhàn lãn tán
Nhất niên mang xứ thị thâm thu

Dịch nghĩa:
Vịnh hoa cúc (bài 1) 
Mưa tạnh, mở cửa vườn đánh gốc trồng,
Sau khi sương xuống, dạo quanh giậu nhặt nhị hoa;
Chớ bảo người ở ẩn vốn lười nhác,
Lúc bận rộn nhất trong năm là lúc cuối thu.

Dịch thơ: 
I
Mưa tạnh ra vườn tỉa gốc trồng,
Sương gieo, quanh giậu lượm từng bông;
Chớ rằng nhàn ẩn nên lười nhác,
Bận rộn khi ngày sắp tới đông. 
                                  Đào Phương Bình 

II 
Tạnh mưa, tỉa gốc ra trồng, 
Sương gieo, dạo hái từng bông hoa vàng; 
Chớ rằng ở ẩn biếng nhàn, 
Cuối thu, tháng nhất trong năm bận nhiều. 
                                                      Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Trương Hán Siêu tự Thăng Phủ, hiệu là Ðộn Tẩu, người làng Phúc Thành, huyện Yên Ninh, lộ Trường Yên. Là môn khách của Trần Quốc Tuấn tiến cử, được vua Trần Anh Tông cho làm Hàn lâm học sĩ năm 1308. Ông giữ nhiều chức vụ quan trọng qua các triều vua Trần Anh Tông (1293-1314) đến Dụ Tông (1341-1370). Năm 1353, được cử đi trấn Hoá Châu. Năm sau, ông cáo bệnh xin về, được chuẩn y, nhưng chưa về đến kinh đã chết, vua tặng chức Thái Bảo. Ông tính cương trực, học vấn sâu rộng, có tư tưởng bài Phật. Các vua nhà Trần thường gọi là Thày mà không gọi tên. Năm 1363, vua Dụ Tông truy tặng Thái Phó, và năm 1372 vua Nghệ Tông cho ông được thờ ở Văn Miếu.

Tác phẩm hiện còn 3 bài văn và 4 bài thơ. Riêng hai quyển Hoàng triều đại điển và Hình thư, soạn chung với Nguyễn Trung Ngạn, chưa tìm thấy.


Jan 10, 2014

210. Cúc hoa kỳ lục

Tác giả: Huyền Quang 玄光
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

菊花其六
大江無夢浣枯腸
百詠梅花讓好粧
老去愁秋吟未穩
詩瓢實為菊花忙

Đại giang vô mộng cán khô tràng 
Bách vịnh mai hoa nhượng hảo trang 
Lão khứ sầu thu ngâm vị ổn 
Thi biều thực vị cúc hoa mang

Dịch nghĩa: 
Hoa cúc (bài 6) 
Chẳng mơ sông lớn rửa tấc lòng khô héo, 
Hoa mai từng được trăm bài thơ vịnh kia phải nhường vẻ đẹp; 
Già rồi, lại buồn vì thu, chưa ngâm được (chưa làm xong thơ), 
Túi thơ, bầu rượu thực vì hoa cúc mà bận rộn.

Dịch thơ: 
I
Chẳng mơ sông rửa lòng khô héo, 
Vẻ quý hoa mai cũng phải nhường; 
Tuổi lão, buồn thu, ngâm chửa đạt, 
Rượu, thơ vì cúc vướng tơ vương. 

II 
Chẳng mơ sông rửa lòng son, 
Mai dù được chuộng cũng còn kém thua; 
Thu buồn, già – tứ lơ mơ, 
Rượu, thơ vì cúc vẩn vơ bận lòng.




Jan 9, 2014

Cúc hoa kỳ ngũ

Tác giả: Huyền Quang 玄光
菊花其五
花在中庭人在樓
焚香獨坐忘憂
主人與物渾無競
花向群芳出一頭

Hoa tại trung đình nhân tại lâu
Phần hương độc toạ tự vong ưu
Chủ nhân dữ vật hồn vô cạnh
Hoa hướng quần phương xuất nhất đầu

Dịch nghĩa: 
Hoa cúc (bài 5) 
Hoa ở trong sân, người trên lầu,
Một mình ngồi thắp hương, tự quên hết lo âu;
Chủ nhân với hoa không có chút nào cạnh tranh,
Trong các loài hoa, cúc trội hơn một bậc.

Dịch thơ: 
I
Hoa ở trong sân, người ở lầu, 
Châm hương, ngồi lặng, giải lo âu; 
Người cùng hoa chẳng đua hơn kém, 
Trong các loài hoa, cúc đứng đầu. 

II 
Hoa trong sân, người ở lầu, 
Châm hương, ngồi lặng, ưu sầu tự quên;
Người, hoa chẳng chút đua chen, 
Giữa trăm hoa, cúc vượt hơn một đầu.

III

Chrysanthèmes (quatrain 5) 
La fleur est dans la cour et l’homme sur l’étage, 
Brulant l’encens, s’assied tout seul et oublie souci; 
L’homme et la fleurs ne sont point concurrents, 
Parmi les fleurs, le chrysanthème surpasse un degré.

Jan 8, 2014

Cúc hoa kỳ tứ

Tác giả: Huyền Quang 玄光
菊花其四
年年和露向秋開
月淡風光愜寸懷
堪笑不明花妙處
滿頭隨到插歸來

Niên niên hòa lộ hướng thu khai
Nguyệt đạm phong quang khiếp thốn hoài
Kham tiếu bất minh hoa diệu xứ
Mãn đầu tuỳ đáo sáp quy lai

Dịch nghĩa: 
Hoa cúc (bài 4) 
Hàng năm, cùng với sương móc đều nở vào mùa thu,
Gió mát, trăng trong làm xao động lòng người;
Ðáng cười người đời không hiểu điều vi diệu của hoa (sống hòa hợp với thiên nhiên),
Khi về lại cắm hoa đầy đầu.

Dịch thơ: 
I
Thu đến cùng sương nở rộ hoa, 
Trăng thanh, gió mát thỏa lòng ta; 
Tùy nơi hoa đẹp, ai không hiểu, 
Ngắt cắm đầu chơi lúc lại nhà. 

II 
Thu về hoa nở, sương rơi, 
Trăng thanh, gió mát cho đời thêm vui; 
Ai hay: hoa đẹp tùy nơi, 
Về nhà, nỡ ngắt cắm chơi đầy đầu.




Jan 7, 2014

Cúc hoa kỳ tam

Tác giả: Huyền Quang 玄光
菊花其三
忘身忘世已都忘
坐久蕭然一榻涼
晚山中無歷日
菊花開處即重陽

Vong thân vong thế dĩ đô vong
Tọa cửu tiêu nhiên nhất tháp lương
Tuế vãn sơn trung vô lịch nhật
Cúc hoa khai xứ tức trùng dương

Dịch nghĩa: 
Hoa cúc (bài 3) 
Quên mình, quên thế, đã quên tất cả,
Ngồi lâu buồn tẻ trên chiếc giường con lạnh mát;
Cuối năm, trong núi không để ý đến ngày tháng,
Thấy hoa cúc nở biết đã tết Trùng Dương.

Dịch thơ: 
I
Quên thân, quên hết cả đời thường, 
Vắng lạnh ngồi lâu một chiếc giường;
Năm muộn, non sâu quên sớm tối,
Cúc vàng đua nở, ấy Trùng Dương. 

II 
Quên thân, quên hết cõi đời, 
Giường con vắng lạnh, lặng ngồi trầm ngâm; 
Non sâu, quên cả tháng năm, 
Cúc vàng đua nở - ấy Trùng Dương sang. 

III
Les chrysanthèmes (quatrain 3) 
Oublier soi-même, oublier le monde, tout oubliér, 
Tranquillement sur le lit frais, on s’assied longtemps; 
L’anneé s’écoule dans le mont, on ne remarque par le temps, 
En floraison des chrysanthèmes on reconnaît la fête Trùng Dương.




Jan 6, 2014

Cúc hoa kỳ nhị

Tác giả: Huyền Quang 玄光
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên
菊花其二
春來黄白各芳菲
愛艶憐香亦似時
遍界繁花全墜地
後彫顔色屬東籬

Xuân lai hoàng bạch các phương phi
Ái diễm liên hương diệc tự thì
Biến giới phồn hoa toàn trụy điạ
Hậu điêu nhan sắc thuộc đông ly

Dịch nghĩa: 
Cúc hoa (bài 2)
Xuân đến, các loài hoa vàng, trắng đều tốt tươi,
Mọi hương, sắc đều được yêu chuộng theo thời;
Khi mọi nơi, các loài hoa đều rơi rụng xuống đất,
Sau các sắc màu đã tàn lụi, thì sắc đẹp thuộc về bờ giậu phía Đông.

Dịch thơ: 
Xuân về vàng trắng rộ khoe tươi,
Mến sắc, yêu hương cũng một thời;
Khắp chốn, cúc hoa tàn lụi cả,
Sắc, hương riêng thuộc giậu Đông thôi. 

II 
Xuân về vàng trắng khoe tươi,
Thương hương, mến sắc, một thời như nhau;
Mọi hoa, khắp chốn phai màu, 
Sắc, hương nay thuộc bờ rào phía Đông.




Jan 4, 2014

205. Cúc hoa kỳ nhất

Tác giả: Huyền Quang 玄光 
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

菊花其一
松聲蔣詡先生徑
梅影西湖處士家
義氣不同難苟合
故圓隨處吐黃花

Tùng thanh tưởng hủ tiên sinh kính
Mai ảnh tây hồ xử sĩ gia
Nghĩa khí bất đồng nan cẩu hợp
Cố viên tuỳ xứ thổ hoàng hoa

Dịch nghĩa: 
Hoa cúc (bài 1) 
Tiếng thông reo trên lối vào nhà tiên sinh Tưởng Hủ,
Bóng mai nở rợp nơi nhà người ở ẩn Tây Hồ;
Nghĩa khí khác nhau khó tùy tiện hoà hợp được,
Nơi vườn xưa khắp nơi có hoa vàng nở.

Dịch thơ: 
I
Vi vút thông reo nhà Tưởng Hủ, 
Thanh thanh mai rợp lối Tây Hồ; 
Không cùng nghĩa khí, sao hòa hợp,
Khắp chốn vườn xưa, hoa cúc phô. 

II 
Thông reo ngõ Tưởng tiên sinh, 
Mai xòa nơi ở ẩn danh Tây Hồ; 
Khác lòng, không thể sống hờ, 
Vườn xưa khắp chốn đầy hoa cúc vàng.

Chrysanthèmes (quatrain 1) 
Les pins bruissent sur le sentier menant au logis du Mr Tưởng Hủ, 
L’image des abricotiers embellit le logis de l’ermite à Tây Hồ; 
Avec des esprits différents on ne peut s’associer, 
Dans l’ancien jardin partout s’éclosent des fleurs jaunes.




Jan 3, 2014

Tảo thu

Tác giả: Huyền Quang 玄光
早秋
夜氣分涼入畫屏
蕭蕭庭樹報秋聲
竹堂忘適香初燼
壹壹叢枝網月明

Dạ khí phân lương nhập họa bình
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh

Dịch nghĩa: 
Thu sớm
Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ,
Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu;
Dưới mái tranh quên bẵng hương vừa tắt,
Mấy khóm cây cành giăng lưới vầng trăng sáng.

Dịch thơ: 
I
Hơi mát đêm thâu lọt tới mành, 
Cây sân xào xạc báo thu thanh; 
Bên lều quên bẵng hương vừa tắt, 
Lưới bủa vầng trăng mấy khóm cành. 
                                        Nguyễn Đổng Chi 

II 
Đêm thâu hơi mát lọt mành, 
Cây sân xào xạc, thu thanh xa gần; 
Quên hương vừa tắt, lều tranh, 
Cây cành bủa ánh trăng thanh lọt vào. 
                                                 Đỗ Quang Liên