Showing posts with label Nguyễn Đổng Chi. Show all posts
Showing posts with label Nguyễn Đổng Chi. Show all posts

Jan 3, 2014

Tảo thu

Tác giả: Huyền Quang 玄光
早秋
夜氣分涼入畫屏
蕭蕭庭樹報秋聲
竹堂忘適香初燼
壹壹叢枝網月明

Dạ khí phân lương nhập họa bình
Tiêu tiêu đình thụ báo thu thanh
Trúc đường vong thích hương sơ tẫn
Nhất nhất tùng chi võng nguyệt minh

Dịch nghĩa: 
Thu sớm
Khí đêm chia hơi mát vào bức rèm vẽ,
Cây trước sân xào xạc báo tiếng thu;
Dưới mái tranh quên bẵng hương vừa tắt,
Mấy khóm cây cành giăng lưới vầng trăng sáng.

Dịch thơ: 
I
Hơi mát đêm thâu lọt tới mành, 
Cây sân xào xạc báo thu thanh; 
Bên lều quên bẵng hương vừa tắt, 
Lưới bủa vầng trăng mấy khóm cành. 
                                        Nguyễn Đổng Chi 

II 
Đêm thâu hơi mát lọt mành, 
Cây sân xào xạc, thu thanh xa gần; 
Quên hương vừa tắt, lều tranh, 
Cây cành bủa ánh trăng thanh lọt vào. 
                                                 Đỗ Quang Liên






Nov 16, 2013

Thứ Bảo Khánh tự bích gian đề

Tác giả: Huyền Quang 玄光
次宝慶寺壁間題
荒草殘煙野思多
南樓北館夕陽斜
春無主惜詩無料
愁絕東風幾樹花

Hoang thảo tàn yên dã tứ đa 
Nam lâu bắc quán tịch dương tà 
Xuân vô chủ tích thi vô liệu 
Sầu tuyệt đông phong kỷ thụ hoa

Dịch nghĩa: 
Hoạ bài thơ đề trên vách chùa Bảo Khánh 
Cỏ hoang khói nhạt, tứ quê chan chứa,
Lầu Nam quán Bắc dưới bóng chiều tà;
Tiếc thay cảnh xuân không có chủ, thơ không có nguồn thơ,
Mấy cây hoa buồn bã trước gió xuân.

Dịch thơ: 
I
Khói nhạt đồng hoang quê lắm vẻ, 
Lầu Nam quán Bắc xế rừng hồng; 
Thơ không thi liệu, xuân không chủ, 
Mấy cội hoa sầu nhớ gió đông. 
                              Nguyễn Đổng Chi 

II
Tình quê cỏ nội khói mây, 
Lầu Nam quán Bắc dây dây bóng tà; 
Vắng nàng xuân, thiếu bạn thơ, 
Gió Đông phơ phất khóm hoa – thật buồn. 
                                                           Đỗ Quang Liên



Chú thích:
Dịch theo bài thơ có những câu: Hoang thảo yên vân và Thi vô bạn


Oct 19, 2013

Tặng An Lãng tự Phổ Minh thiền sư

Tác giả: Trần Thì Kiến (1260–1330) 陳時見
贈安朗寺普明禪師
隱不林泉真大隱
修於家寺即真修
此日參禪如夢覺
休將往事怪潮州

Ẩn bất lâm tuyền chân đại ẩn 
Tu ư gia tự tức chân tu 
Thử nhật tham thiền như mộng giác 
Hưu tương vãng sự quái trào châu

Dịch nghĩa: 
Đề tặng thiền sư Phổ Minh ở chùa An Lãng 
Ẩn cư mà không ở nơi rừng suối mới là đại ẩn, 
Tu hành ngay tại nơi chùa nhà mới thực chân tu; 
Hôm nay được tham vấn đạo Thiền, như người trong mộng chợt tỉnh, 
Đừng đem việc đã qua mà trách ông Thứ sử Trào Châu.

Dịch thơ: 
Rừng suối phải đâu là đại ẩn, 
Chùa nhà ấy mới thực chân tu; 
Nay được tham Thiền như mộng tỉnh, 
Đừng đem chuyện cũ trách Trào Châu. 
                                           Nguyễn Đổng Chi. 

II 
Đại ẩn không ở núi rừng, 
Chùa nhà tu tập, đúng đường chân tu; 
Tham Thiền chợt tỉnh mộng du, 
Chuyện qua trách cứ Trào Châu làm gì! 
                                                       Đỗ Quang Liên 
 

Chú thích: 
- Trần Thì Kiến, người Cự Xá, Đông Triều, Quảng Ninh, là môn khách của Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, ông được tiến cử với vua Trần Nhân Tông làm An Phủ sứ Thiên Trường, sau lên Tả tham tri chính sự, Tả bộc xạ. Người đời khen là “Khả dĩ chiết ngục” nghĩa là phân tích hết mọi lẽ rồi mới kết tội. 
- Trào Châu thuộc Quảng Đông (Trung Quốc), ám chỉ Hàn Dũ thời Đường Hiến Tông, bị biếm làm Thứ sử Trào Châu, vì viết bài Phật cốt biểu luận, can ngăn việc rước xương Phật. Tuy nhiên đến cuối đời Hàn Dũ lại theo Phật học.




May 29, 2013

Ký Thanh Phong am tăng Đức Sơn

Tác giả: Trần Cảnh -Trần Thái Tông (1218-1277) 陳耿陳太宗 
Là Hoàng đế khai sáng triều nhà Trần, vị vua anh hùng chiến thắng quân Mông Cổ lần thứ nhất (1258)


寄清風庵僧德山
風打松關月照庭
心期風景共凄清
箇中滋味無人識
付與山僧樂到明


Phong đả tùng quan nguyệt chiếu đình 
Tâm kỳ phong cảnh cộng thê thanh 
Cá trung tư vị vô nhân thức 
Phó dữ sơn tăng lạc đáo minh

Dịch nghĩa: 
Gửi nhà sư Đức Sơn ở am Thanh Phong 
Gió đập cổng thông, trăng sáng trước sân, 
Lòng hẹn với phong cảnh cùng trong sạch lặng lẽ; 
Bao nhiêu thú vị trong đó không ai hay, 
Mặc cho nhà sư trong núi vui đến sáng.

Dịch thơ: 
Gió đập cửa thông, trăng lấp loáng, 
Lòng đây, cảnh đấy cùng thanh sảng; 
Bao nhiêu thú vị chẳng ai hay, 
Mặc kệ cho sư vui đến sáng. 
                                   Nguyễn Đổng Chi. 

II 
Cửa thông gió vỗ, trăng soi, 
Lặng yên cảnh với lòng người sáng trong; 
Tình này ai có biết chăng? 
Để nhà sư thú vui cùng thâu đêm!

                                        Đỗ Quang Liên 

 
 

May 3, 2013

40. Sắc thân dữ diệu thể (kỳ nhất)

Tác giả Âu Đạo Huệ 歐道惠


色身與妙  其一
地水火風識
原來一切空
如雲還聚散
佛日照無窮

Địa thuỷ hoả phong thức
Nguyên lai nhất thiết không 
Như vân hoàn tụ tán 
Phật nhật chiếu vô cùng

Dịch nghĩa: 
Sắc thân và diệu thể (1) 
Đất, nước, lửa, gió và ý thức, 
Vốn dĩ đều là không; 
Như đám mây hợp rồi lại tan, 
Nhưng mặt trời nhà Phật thì soi sáng không cùng.

Dịch thơ: 
Đất, nước, lửa, gió, thức, 
Hết thảy vốn đều "không"; 
Mây tụ rồi tan đấy, 
Lòng Phật sáng vô cùng.
                        Nguyễn Đổng Chi. 

II 
Đất, nước, lửa, gió, ý thức, 
Vốn dĩ hết thảy cũng đều là không; 
Như mây tụ lại rồi tan, 
Mặt trời nhà Phật sáng lan vô cùng. 
                                                        Đỗ Quang Liên

Chú thích: 
Đạo Huệ người hương Chân Hộ, đất Như Nguyệt. Năm 15 tuổi, theo học Thiền sư Ngô Pháp Hoa ở chùa Phổ Ninh, rồi đến trụ trì ở chùa Quang Minh, núi Thiên Phúc, huyện Tiên Du, thành người đứng đầu thế hệ thứ 9 dòng thiền Quang Bích. Ông tinh thông phép "Tam quán" và "Tam muội". Năm Đại Định 12 (1159), vua Lý Anh Tông mời vào thăm bệnh cho công chúa Thuỵ Minh, và ở lại chùa Báo Thiên mở trường dạy học, có đến nghìn học trò. 
Đất, nước, lửa, gió, thức theo quan điểm nhà Phật là 5 yếu tố hợp thành thân thể người ta.