May 30, 2014

Thu dạ



Tác giả: Nguyễn Phi Khanh (1355-1428?) 阮飛卿

秋夜
新愁舊恨撥難平
南北情懷夢亦驚
月色無人更無賴
秋來夜夜總關情

Tân sầu cựu hận bát nan bình 
Nam bắc tình hoài mộng diệc kinh 
Nguyệt sắc vô nhân cánh vô lại 
Thu lai dạ dạ tổng quan tình

Dịch nghĩa:  
Đêm thu 
Sầu mới, hờn xưa khó dẹp bằng, 
Nỗi lòng Nam, Bắc, trong giấc mộng cũng giật mình; 
Ánh trăng không người lại càng trơ trọi, 
Mùa thu đến, đêm đêm vẫn vấn vương trong lòng.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Sầu mới, hạn xưa khó dẹp bình, 
Nỗi lòng Nam Bắc mộng thêm kinh; 
Không người, trăng sáng càng trơ trọi, 
Thu đến, đêm đêm vướng vất tình. 

II 
Hận xưa, sầu mới dẹp sao, 
Nỗi lòng Nam Bắc, mộng nào chẳng kinh; 
Dưới trăng, người vắng, một mình, 
Đêm đêm vương vấn tâm tình với thu!


Chú thích: 
Ông tên Nguyễn Ứng Long, quê Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, phủ Quốc Oai, trấn Sơn Nam Thượng, nay thuộc Hà Nội. Vợ ông là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Ông là thân phụ Nguyễn Trãi. Ông đỗ Nhị giáp tiến sỹ năm Long Khánh thứ hai đời Trần Duệ Tông (1374). Dưới triều nhà Hồ, ông là Hàn lâm học sỹ, Thống chương đại phu, Đại lý tự khanh kiêm Trung thư thị lang, Tư nghiệp Quốc tử giám. Năm 1407, ông bị quân Minh bắt giải về Trung Quốc, rồi mất năm 73 tuổi. Sau, con là Nguyễn Phi Hùng đưa hài cốt về an táng tại Côn Sơn.




May 29, 2014

Chu trung ngẫu tác

Tác giả: Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿

舟中偶作
蕭蕭旅鬢傷春暮
耿耿孤懷怯瘴氛
俗累不關清興足
看山看水又看雲 

Tiêu tiêu lữ mấn thương xuân mộ 
Cảnh cảnh cô hoài khiếp chướng phân 
Tục lụy bất quan thanh hứng túc 
Khan sơn khan thuỷ hựu khan vân

Dịch nghĩa:  
Trong thuyền ngẫu nhiên làm 
Mái tóc tha hương bơ phờ, thương cho xuân muộn, 
Canh cánh nỗi lòng cô đơn, thêm sợ bầu chướng khí; 
Khi tục luỵ chẳng vấn vương, cái hứng thanh tao tràn đầy, 
Xem núi, xem nước, lại xem mây.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

Tha hương, tóc rối, thương xuân muộn, 
Canh cánh lòng quê, ngại chướng lam; 
Tục lụy tạm khuây, tràn nhã hứng, 
Trông non, nhìn nước, ngắm mây ngàn. 

II 
Thương xuân, mái tóc bơ phờ, 
Lòng quê canh cánh, càng ghê khí tà; 
Hứng lên, tục lụy lùi xa,
Ngắn nhìn non nước chan hòa trời mây.


May 28, 2014

310. Thiên thánh hựu quốc tự tảo khởi

Tác giả: Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿

天聖佑國寺早起
仙家宮闕近蓬萊
耳伴鈞天夢易迴
睡起春朝無個事
東風庭院看花開

Tiên gia cung khuyết cận bồng lai 
Nhĩ bạn quân thiên mộng dị hồi 
Thụy khởi xuân triêu vô cá sự 
Đông phong đình viện khán hoa khai

Dịch nghĩa:  
Ở chùa Thiên Thánh Hựu Quốc dậy sớm 
Cung điện thần tiên gần với cảnh Bồng Lai, 
Nhạc trời ở bên tai nên giấc mộng dễ tỉnh; 
Sáng mùa xuân thức dậy không có việc gì làm, 
Chỉ xem hoa nở trước gió xuân ở ngoài sân.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Nhà tiên cung điện tựa Bồng Lai, 
Mộng tỉnh, nhạc trời vẳng cạnh tai; 
Thức dậy, sáng xuân không việc bận, 
Xem hoa, trước gió nở sân ngoài. 

II 
Cung tiên gần cảnh Bồng Lai, 
Mộng trần dễ tỉnh, vảng tai nhạc trời; 
Làm chi xuân sớm? dậy rồi! 
Dạo ngoài sân, ngắm hoa cười gió đông.



Chú thích:
- Nguyễn Phi Khanh tên thật là Nguyễn Ứng Long, hiệu Nhị Khê, quê xã Nhị Khê, quê xã Nhị Khê, huyện Thượng Phúc, phủ Quảng Oai, trấn Nam Sơn Thượng (nay thuộc Thường Tín, Hà Nội). Tổ tiên vốn ở xã Chi Ngại, huyện Phượng Nhãn, trấn Kinh Bắc. Phi Khanh là thân sinh Nguyễn Trãi. Vợ là Trần Thị Thái, con quan Tư đồ Trần Nguyên Đán. Năm 1374, đậu Tiến sỹ, Thượng hoàng Trần Nghệ Tông không bổ dụng làm quan, vì con thường dân lấy vợ họ nhà vua. Đến triều nhà Hồ (1402), được làm Học sỹ viện Hàn lâm, sau thăng Thái tử tả tán thiện đại phu, Tư nghiệp Quốc tử giám... năm 1407, Minh xâm lược, Phi Khanh và 3 con bị bắt về Kim Lăng, Phi Khanh đã khuyên Nguyễn Trãi trở về nước rửa thẹn cho nước, phục thù cho cha, mới là đại hiếu. 
Tác phẩm gồm Nhị Khê thi tập (đã mất), Nguyễn Phi Khanh thi văn (in trong Ức trai thi tập). 
- Nhạc trời (quân thiên): theo Sử ký, Triệu Giản Tư mắc bệnh, thấy lên trời chơi ở chốn Quân Thiên, nghe tấu điệu Quảng nhạc, tiếng nhạc xúc động tâm can. 

 

May 27, 2014

Hoá thành thần chung

Tác giả: Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿

化城晨鐘
遠遠從僧寺
疏疏落客篷
潮生天地曉
月白又江空

Viễn viễn tòng tăng tự 
Sơ sơ lạc khách bồng 
Triều sinh thiên địa hiểu 
Nguyệt bạch hựu giang không.

Dịch nghĩa: 
Tiếng chuông chùa sớm 
Xa xa từ ngôi chùa vọng lại, 
Tiếng thưa lọt vào thuyền khách; 
Triều dâng, trời đất sáng dần, 
Trăng sáng bạc, sông mênh mông.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Xa xa tiếng chuông chùa, 
Lọt thuyền khách nhặt thưa; 
Triều dâng, trời đất rạng, 
Sông rộng, ánh trăng mờ. 

II 
Xa xa vẳng tự lầu thiền, 
Ngân nga khẽ lọt khoang thuyền khách thơ; 
Triều dâng, trời đất sáng mờ, 
Vòm không trăng bạc, sông bờ mênh mông.




May 26, 2014

Hoàng giang dạ vũ

Tác giả: Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿

黃江夜雨
柳浦三秋雨
筠篷半夜聲
孤燈明又滅
湖海十年情

Liễu phố tam thu vũ 
Quân bồng bán dạ thanh 
Cô đăng minh hựu diệt 
Hồ hải thập niên tình

Dịch nghĩa:  
Mưa đêm trên sông Hoàng 
Mưa cuối thu trên bến Liễu, 
Tiếng rơi xuống mui thuyền lúc nửa đêm; 
Ánh đèn cô đơn sáng rồi lại tắt, 
Mối tình hồ hải đã qua mười năm.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Cuối thu, mưa bến Liễu, 
Đêm lộp bộp trên mui; 
Tỏ, mờ đền đơn độc, 
Phiêu lẵng mười năm trời. 

II 
Ba thu bến Liễu mưa rền, 
Nửa đêm rả rích mui thuyền tiếng mưa; 
Đèn côi khi tỏ, khi mờ, 
Mười năm trời biển nghe ngơ ngẩn lòng.




May 23, 2014

Tặng đông triều phạm tiên sinh

Tác giả: Nguyễn Phi Khanh 阮飛卿

贈東潮范先生
人生天地一蘧廬
無奈離群久素居
今日相逢數杯酒
他時倍勝百封書

Nhân sinh thiên địa nhất cừ lư
Vô nại ly quần cửu xác cư
Kim nhật tương phùng sổ bôi tửu
Tha thời bội thắng bách phong thư

Dịch nghĩa:  
Tặng tiên sinh họ Phạm ở Đông Triều
Người ta sống trong trời đất như một nhà trạm,
Sao có thể lìa bày, sống một mình lâu được;
Hôm nay gặp nhau hãy cạn mấy chén rượu,
Còn hơn lúc khác nhận được hàng trăm bức thư của nhau.
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

I
Sống trong thời đất như nhà trọ,
Sao mãi lìa đàn, ở một thân;
Mấy chén hôm nay mừng gặp gỡ,
Hơn sau thư tín gửi trăm lần.

II
Đất trời, quán trọ dừng chân, 
Làm sao sống mãi một thân lìa đàn; 
Bữa nay mấy chén giao hoan, 
Hơn ngày sau nhận trăm ngàn phong thư.

 


May 22, 2014

Quá phong khê

Tác giả: Trần Lôi 陳雷
過封溪
浪泊嗟鳶墜
封溪築蠒
一時巾幗陣
陡爾立功名

Lãng bạc ta diên trụy 
Phong khê trúc kiển thành 
Nhất thời cân quắc trận 
Đẩu nhĩ lập công danh

Dịch nghĩa: 
Qua đất Phong Khê 
Trông hồ Lãnh Bạc than thở rơi diều, 
Ở đất Phong Khê xây đắp thành Kén; 
Đội quân khăn yếm một thời, 
Lập nên công danh vang dội.

Dịch thơ: 

Lãng Bạc diều rơi xuống, 
Phong Khê đắp Kiển Thành; 
Một thời khăn yếm đấy, 
Vang dội lập công danh. 
                 Tuấn Nghi, Phạm Đức Duật 

II 
Thở than: Lãng Bạc rơi diều, 
Phong Khê thành Kén quá nhiều gian lao; 
Một phen yếm thắm cờ đào, 
Công danh vang dội ngút cao muôn đời!
                                                       Đỗ Quang Liên

Chú thích: 
- Phong Khê: Kinh đô của Hai Bà Trưng thời xưa (nay thuộc Vĩnh Phúc). 
- Con diều bị rơi (diên trụy): Mã Viện truyện, Hậu Hán thư có câu: “Ngưỡng thị phi diên điệp điệp trụy thủy chung”, nghĩa là “Ngước trông thấy diều bay, lớp lớp rơi xuống nước”, ý nói đất Nam Việt hiểm trở, đến con diều cũng không bay qua được, phải rơi thẳng xuống nước. 
- Kiển thành: thành do Mã Viện cho đắp tại Phong Khê, thành tròn như tổ kén, nên gọi là Kiển thành. 
- Trần Lôi sinh, trú quán, năm sinh, năm mất chưa rõ. Chỉ biết ông sống vào khoảng cuối thời Trần. Tác phẩm hiện còn một bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.

May 21, 2014

305. Lan kỳ thập nhị

Tác giả: Tạ Thiên Huân 謝天熏
蘭其十二
秋入書堂夜欲中
吟鞋獨自遶芳叢
鼻根豈是貪香味
正是吾家臭味同

Thu nhập thư đường dạ dục trung 
Ngâm hài độc tự nhiễu phương tùng 
Tị căn khởi thị tham hương vị 
Chính thị ngô gia xú vị đồng

Dịch nghĩa:  
Lan (bài 12) 
Hơi thu lọt vào thư phòng, trời sắp nửa đêm, 
Đôi hài thơ một mình dạo quanh khóm cây thơm; 
Nào phải do cái mũi mải hương vị, 
Mà chính vì nó vốn cùng một giống với nhà ta.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Đêm vắng, thư phòng bát ngát thu, 
Một mình quanh khóm dạo hài thơ; 
Phải đâu cái mũi tham hương vị, 
Hoa chính cùng hương giống với ta. 

II 
Nửa đêm thu lọt thư phòng, 
Hài thơ dạo khóm cây thơm một mình; 
Phải đâu tham ngửi hương thanh, 
Chính vì một loại giữa mình với ta.





May 20, 2014

Lan kỳ thập nhất

Tác giả: Tạ Thiên Huân 謝天熏

蘭其十一
風雪淋漓楚澤間
冰姿玉貌孰能干
憑誰為報月中姊
仙種同稱入廣寒

Phong tuyết lâm ly sở trạch gian 
Băng tư ngọc mạo thục năng can 
Bằng thuỳ vị báo nguyệt trung tỉ 
Tiên chủng đồng xưng nhập quảng hàn

Dịch nghĩa:  
Lan (bài 11) 
Gió tuyết tơi bời trên chằm nước Sở, 
Thể chất như băng, hình dung tựa ngọc, ai mà tìm được; 
Biết nhờ ai nhắn cùng bà chị trong trăng, 
Rằng đây là giống tiên, hãy cho vào cung Quảng Hàn.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Gió tuyết bời bời chằm nước Sở, 
Chất băng, dáng ngọc mấy ai bằng; 
Nhờ người nhắn chị trong trăng bạc, 
Hãy đón nòi tiên đến Quảng Hàn. 

II 
Tìm đâu gió tuyết tơi bời, 
Dáng tươi tựa ngọc, chất người như băng; 
Nhờ ai nhắn với chị Hằng, 
Giống tiên, mời đến Quảng Hàn cùng vui. 



Chú thích: 
- Chằm nước Sở (Sở trạch): là nơi có rất nhiều giống “trạch lan”, một thứ “hương thảo” mà Khuất Nguyên từng đặc biệt ca ngợi. 
- Theo thần thoại, thì trên cung trăng có cây “đan quế”, mà Quế lại thường được nêu tên chung với Lan. Quế đã là giống tiên, thì Lan cũng là giống tiên. 
- Cung Quảng Hàn: theo sách Thiên bảo di sự thì Đường Minh Hoàng từng dạo chơi trên cung Nguyệt, thấy một tấm bảng, trên đó có mấy chữ “Quảng Hàn thanh hư chi phủ” (廣寒清虛之府) , người sau nhân đó gọi mặt trăng là cung Quảng Hàn.


May 19, 2014

Lan kỳ thập

Tác giả: Tạ Thiên Huân 謝天熏

蘭其十
靈均去後幾流芳
騷筆蕭然莫發揚
今日花前悄無語
清風雖為策賢良

Linh quân khứ hậu kỷ lưu phương 
Tao bút tiêu nhiên mạc phát dương 
Kim nhật hoa tiền tiễu vô ngữ 
Thanh phong thuỳ vị sách hiền lương

Dịch nghĩa:  
Lan (bài 10) 
Sau khi Linh Quân qua đời, danh thơm còn lưu lại bao nhiêu nữa, 
Ngọn bút Ly Tao tiêu điều không còn kẻ phát huy lên; Hôm nay đứng trước hoa rầu rĩ không nói, Gió mát sẽ do đâu mà chọn kẻ hiền lương?

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Từ mất Linh Quân vắng tiếng truyền, 
Tiêu điều Tao bút, ai nhen lên; 
Trước hoa rầu rĩ im không nói, 
Gió mát do đâu chọn kẻ hiền. 

II 
Người đi, còn mấy danh thơm, 
Ly Tao hiu hắt, ai còn phát huy? 
Trước hoa, rầu rĩ nói chi, 
Hiền lương ai chọn, trách gì gió thu.



Chú thích: 
- Linh Quân: tên chữ của Khuất Nguyên, nhà thơ và nhà yêu nước lớn của nước Sở vào thới Chiến Quốc. 
- Ly Tao: một tác phẩm lớn của Khuất Nguyên, viết trước khi nhà thơ trẫm mình ở sông Mạch La.