Oct 30, 2013

Vịnh cúc kỳ nhị

Tác giả: Đỗ Khắc Chung 杜克鍾
詠菊其二
重陽摘蕊陶釀醉
秋夕餐英屈愛香
二老風流千載遠
天教菊隱出承當

Trùng dương trích nhuỵ đào nhương tuý 
Thu tịch xan anh khuất ái hương 
Nhị lão phong lưu thiên tải viễn 
Thiên giao cúc ẩn xuất thừa đương

Dịch nghĩa: 
Vịnh hoa cúc (bài 2)
Tiết trùng dương hái nhị, họ Đào ủ men say, 
Chiều thu ngậm cánh hoa, họ Khuất yêu hương ngát; 
Phong độ hai ông già đã nghìn năm xa rồi, 
Nay trời trao chức “hoa cúc ẩn dật” phải ra gánh vác.


Dịch thơ:
Trùng cửu hái hoa, Đào cất rượu, 
Chiều thu nếm nhuỵ, Khuất yêu hương. 
Phong lưu hai vị nghìn năm khuất, 
Cúc Ẩn trời trao, hãy đảm đương. 
                                             Huệ Chi 

II 
Ủ men hoa hái Trùng Dương, 
Chiều thu nếm nhụy, yêu hương cúc nồng, 
Hai già đã cách ngàn trùng, 
Trời cao Cúc Ẩn ra đương việc đời. 
                                                 Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Trùng Dương: tết mùng 9 tháng 9; Đào Tiềm (tự là Uyên Minh, 365-427) yêu hoa cúc. Câu thứ nhất muốn nói Đào Tiềm, ngày 9 tháng 9 hái hoa cúc, ủ men nấu rượu. 
- Câu 2 muốn nói đến Khuất Nguyên (340-278 TCN) người nước Sở thời Chiến Quốc, tính trung thực, cao khiết, bị vua nước Sở bỏ rơi, ông làm bài Ly Tao nổi tiếng, trong bài thường dùng hoa cúc, ví với phẩm chất trong sạch của mình. 
- Câu 4, tác giả có ý chỉ mình, vì tên tự của ông là Cúc Ẩn.


Oct 29, 2013

Vịnh cúc kỳ nhất

Tác giả: Đỗ Khắc Chung 杜克鍾
詠菊其一
騷名莫負少年時
試向花場植將旗
入夢斷無春草句
吟香喜有菊花詩

Tao danh mạc phụ thiếu niên thì  
Thí hướng hoa trường thực tướng kỳ 
Nhập mộng đoạn vô xuân thảo cú 
Ngâm hương hỷ hữu cúc hoa thi

Dịch nghĩa: 
Vịnh hoa cúc (bài 1) 
Tuổi trẻ chớ phụ cái danh tao khách, 
Thử đem ngọn cờ tướng trồng ở bãi hoa; 
Đi vào giấc mơ, tuyệt không có câu thơ “Cỏ xuân”, 
Vịnh hương thơm, mừng có bài thơ hoa cúc.

Dịch thơ: 
Thiếu niên đừng vội phụ tài thơ, 
Thử đến vườn hoa cắm ngọn cờ; 
Linh Vận không vào trong mộng hứng, 
Uyên Minh mừng gợi được hồn thơ. 
                                                   Huệ Chi 

II 
Thiếu niên chớ phụ tài thơ, 
Vườn hoa, thử cắm ngọn cờ Tướng quân; 
Trong mơ, không tứ “cỏ xuân”, 
Vịnh hương, mừng có thơ thần cúc hoa. 
                                              Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Khắc Chung người huyện Giáp Sơn, phủ Tân Hưng, đặt tên là Cúc Ẩn. Năm 1285, quân Nguyên đánh nước ta, ông được mang thư giảng hòa sang trại giặc, với thực chất là dò xét tình hình. Ông đối đáp cứng cỏi khiến Ô Mã Nhi phải thán phục. Sau chiến thắng, ông được ban họ của Vua và chức Đại hành khiển. Trải ba đời vua Nhân Tông, Anh Tông, Minh Tông, ông lên đến chức Thiếu bảo hành thánh, hàm Đông trung thư môn hạ bình chương sự, và được vua Minh Tông ban tên tự là Văn Tiết. Năm 1307, ông được giao cứu công chúa Huyền Trân khỏi bị hỏa thiêu. Nhưng ông cũng có sai lầm khi dính líu vào phe phái trong triều, gây nên cái chết của Trần Quốc Chẩn. 
- Cỏ xuân: Tạ Linh Vận có em là Tạ Huệ Liên 10 tuổi đã giỏi thơ, mỗi lần Vận làm thơ, có Liên thì thường nghĩ được những câu thơ hay. Một hôm, ở Vĩnh Gia, mãi không nghĩ ra được tứ thơ, chợt nằm mơ thấy Huệ Liên, thế là câu Trì đường sinh xuân thảo (bờ ao cỏ xuân mọc) nảy ra trong trí. Tác giả muốn nói mình không có phong cách Tạ Linh Vận, nhưng gần với Đào Tiềm, rất yêu hoa cúc.



Oct 28, 2013

Đông cảnh

Tác giả: Trần Anh Tông 陳英宗
冬景
蒼描翠抹削晴峰
紫府樓倚半空
幾度碧桃先結實
洞天三十六春風

Thương miêu thuý mạt tước tình phong 
Tử phủ lâu đài ỷ bán không 
Kỷ độ bích đào tiên kết thực 
Động thiên tam thập lục xuân phong

Dịch nghĩa: 
Cảnh đông 
Vẽ mầu xanh, tô mầu thuý, thiên nhiên đẽo gọt nên chỏm núi tạnh sáng, 
Lâu đài của phủ tía dựa vào lưng chừng trời; 
Cây bích đào mấy lần đã kết quả trước, 
Gió xuân thổi khắp ba mươi sáu động trời.

Dịch thơ: 
Vẽ thắm, tô xanh sáng đỉnh non, 
Lưng trời phủ tía dựa chon von; 
Bích đào chín sớm bao nhiêu bận? 
Ba sáu cung trời gió ấm tuôn. 
                      Huệ Chi - Phạm Tú Châu 

II 
Đỉnh non sáng thắm, tươi xanh, 
Lâu đài, phủ tía, chanh vanh lưng trời;
Bao lần đào kết quả rồi, 
Gió xuân băm sáu động trời mơn man. 
                                                   Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Chỉ nơi ở của Thần Tiên hoặc Đế vương. 
- Bích đào: loại quả nơi tiên giới, sách Doãn Hỷ nội truyện ghi Lão Tử đi chơi phương Tây, thăm bà Thái Chân Vương Mẫu, cùng ăn bích đào và tử lê.



Oct 26, 2013

155. Đông Sơn tự

Tác giả: Trần Anh Tông 陳英宗
東山寺
風搖解虎秋蟬逈
月瀉軍持夜澗寒
休向五臺勞夢寐
看來天下幾東山

Phong dao giải hổ thu thiền quýnh 
Nguyệt tả quân trì dạ giản hàn 
Hưu hướng ngũ đài lao mộng mị 
Khan lai thiên hạ kỷ đông san

Dịch nghĩa: 
Chùa Đông Sơn 
Gió lay gậy thần tích, tiếng ve mùa thu im ắng, 
Trăng tãi ánh sáng xuống bình nước, dòng suối ban đêm lạnh lẽo; 
Dừng nhọc lòng mơ tưởng đến núi Ngũ Đài làm gì, 
Xem trong thiên hạ được mấy cảnh Đông Sơn?

Dịch thơ:
Gió lay thiền trượng ve im tiếng, 
Trăng chảy trong bình, suối lạnh hơn; 
Mơ ước Ngũ Đài chi nữa nhỉ, 
Trên đời hồ dễ mấy Đông Sơn. 
Huệ Chi 

II 
Gậy thiền, gió động, ve im, 
Nước bình trăng dãi suối đêm lạnh lùng; 
Ngũ Đài mơ mộng nhọc công, 
Dưới trời hồ dễ mấy vùng Đông Sơn?
                                                    Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Đông Sơn: chùa làm từ thời Lý trên núi Chương, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, là danh thắng nước ta. 
- Gậy Thần tích, nguyên văn là “Giải hổ”, theo điển tích theo Cao tăng truyện: xưa thiền sư nước Tề là Tăng Trù thấy hai con hổ đánh nhau, lấy gậy thần tích gỡ chúng ra, từ đấy gậy thần tích được mệnh danh là giải hổ. 
- Bình nước, nguyên văn là “Quân trì” phiên âm từ tiếng Phạn, nghĩa là bình đựng nước của các nhà sư mang theo khi đi xa để uống hay rửa tay. 
- Ngũ Đài là dãy núi 5 ngọn rất cao, ở Đông Bắc huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.


Oct 25, 2013

Tứ hữu gián nghị đại phu Trần Thì Kiến hốt minh

Tác giả: Trần Thuyên (Trần Anh Tông 1276-1320) 陳英宗
賜右諫議大夫陳時見笏銘
泰山貞髙
象笏貞列
灵豸進角
爲笏難折

Thái sơn trinh cao 
Tượng hốt trinh liệt 
Linh trãi tiến giác 
Vi hốt nan chiết

Dịch nghĩa: 
Ban cho Hữu Gián Nghị đại phu Trần Thì Kiến bài minh khắc trên hốt 
Thái Sơn rất cao, 
Hốt ngà rất cứng; 
Trãi thiêng dâng sừng, 
Làm hốt khó gẫy.

Dịch thơ: 
Thái Sơn cực cao, 
Hốt ngà cực khỏe; 
Linh trãi dâng sừng, 
Hốt không thể bẻ. 
                     Huệ Chi 

II 
Thái Sơn, ngọn núi cao vời, 
Hốt ngà cứng cỏi một đời trung trinh; 
Con trãi dâng chiếc sừng thiêng, 
Hốt chẳng thể bẻ, không nghiêng chính tà. 
                                                        Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Trần Thuyên, con trưởng của vua Trần Nhân Tông, lên ngôi năm 1293 sau ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Đối ngoại vừa mềm dẻo, vừa quyết liệt từ chối sang chầu. Đối nội định kế sách có hiệu quả, mạnh dạn dùng người trẻ có tài, tuy còn thiếu kinh nghiệm như Nguyễn Trung Ngạn, Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu,… Thơ ông giản dị, trong sáng, giàu tình cảm và trau chuốt, mở đầu cho dòng thơ vịnh sử nước nhà. Tác phẩm có Thạch dược phẩm và Thủy Vân tùy bút, nhưng đều bị chính tác giả thiêu hủy trước khi chết. 
– Trãi là một loài thú thần thoại, giống trâu nhưng chỉ có một sừng, biết phân biệt gian. ngay. Truyền rằng người xưa khi xử kiện, mang nó ra để húc kẻ gian. Tác giả đề cao tài xử kiện thông minh, chính trực của Trần Thì Kiến.
 




Oct 24, 2013

Thuật hoài

Tác giả: Phạm Ngũ Lão 范五老
述懷
橫槊江山恰幾秋
三軍貔虎氣吞牛
男兒未了功名債
羞聽人間說武侯

Hoành sóc giang sơn cáp kỷ thu 
Tam quân tỳ hổ khí thôn Ngưu 
Nam nhi vị liễu công danh trái 
Tu thính nhân gian thuyết vũ hầu

Dịch nghĩa: 
Thuật nỗi lòng 
Cắp ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu, 
Ba quân như gấu hổ, át cả sao Ngưu; 
Thân nam nhi nếu chưa trả xong nợ công danh, 
Ắt thẹn thùng khi nghe người đời kể chuyện Vũ Hầu.

Dịch thơ: 
Múa giáo non sông trải mấy thâu 
Ba quân hùng khí át sao Ngưu! 
Công danh nam tử còn vương nợ, 
Luống thẹn tai nghe chuyện Võ Hầu. 
                                         Trần Trọng Kim 

II 
Bao thu ngọn giáo ngang tàng, 
Ba quân khí thế hiên ngang ngút trời; 
Công danh chưa xứng với đời, 
Thẹn nghe người nói chuyên ngươi Vũ Hầu. 
                                                              Đỗ Quang Liên 


Chú thích:
- Ngũ Lão người làng Phù Đổng, huyện Đường Hào, nay thuộc Ân Thi, Hải Hưng, con rể của Hưng Đạo Vương Trần Quốc Tuấn, có công lớn chống giặc Nguyên Mông. Đời Trần Anh Tông, được giao cai quản quân Hữu vệ Thánh dực, sau lên Điện soái thượng tướng quân, tước Quan nội hầu. Văn võ toàn tài, ông đề xướng và thực hiện “Phụ tử chi binh” có kết quả. Khi ông mất, vua Trần Minh Tông nghỉ chầu 5 ngày để tỏ lòng tưởng nhớ. 
- Sao Ngưu: sao Ngưu Đẩu ở phương Bắc.
- Vũ Hầu: tức Gia Cát Lượng, đời Tam Quốc, giúp Lưu Bị khôi phục nhà Hán, được phong tước Vũ Lượng hầu.




Oct 23, 2013

Đề Bạch Hạc miếu

Tác giả: Vương Vụ Thành 王務成
題白鶴廟
貔貅十萬赫王靈
勢壓雲南塞外城
江左區區何是氣
風聲鶴唳振秦兵

Tỳ hưu thập vạn hách vương linh
Thế áp Vân Nam tái ngoại thành 
Giang tả khu khu hà thị khí 
Phong thanh hạc lệ chấn Tần binh

Dịch nghĩa: 
Đề miếu Bạch Hạc 
Mười vạn quân lính hùng dũng như hùm beo làm nổi bật uy linh của nhà vua, 
Khí thế áp sát thành trì giặc, phía ngoài biên giới cõi Vân Nam; 
Bo bo một vùng bên tả sông, đó là khí phách gì? 
Gió rít, hạc kêu làm chấn động quân Tần. 

Dịch thơ: 
Hùm beo mười vạn dậy oai linh, 
Ngoài cõi Vân Nam thế áp thành; 
Sao cứ bo bo sông mé tả? 
Hạc kêu gió rít, rợn Tần binh. 
                     Đinh Gia Khánh - Nguyễn Ngọc San 

II 
Ba quân hùm sói oai linh, 
Bừng bừng khí thế áp thành Vân Nam; 
Một vùng giang tả chi ham? 
Hạc kêu, gió rít, quân Tần rộn kinh. 
                                                       Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Vụ Thành, không rõ năm sinh, năm mất và quê quán; dưới triều vua Trần Anh Tông (1276-1320) làm Học sỹ, có theo xa giá chinh Tây, khi về qua miếu làm bài thơ này. Miếu do Lý Thường Minh, Đô hộ sứ Phong Châu lập thời Đường Cao Tông (650-656) thờ thần Thổ Lệnh, phúc thần của ba sông hợp lưu, nhưng lý lịch và công tích của thần không được chép rõ, bài thơ có nhiều câu khó hiểu.



Oct 22, 2013

Tụng giá tây chinh yết Bạch Hạc giang Hiển Uy Vương từ

Tác giả: Nguyễn Sĩ Cố 阮士顧
從駕西征謁白鶴江顯威王祠
龜魚符印掛腰間
茲事希求付將官
薄劣書生無望處
祗來祠下乞平安

Quy ngư phù ấn quải yêu gian
Tư sự hy cầu phó tướng quan 
Bạc liệt thư sinh vô vọng xứ 
Chỉ lai từ hạ khất bình an

Dịch nghĩa: 
Phò giá vua chinh phạt phía tây, bái yết đền thờ Hiển Uy Vương ở sông Bạch Hạc 
Lưng đeo bùa ấn hình cá, hình rùa, 
Việc cầu khấn này phó thác cho quan và tướng;
Kẻ học trò yếu đuối không có ước vọng gì, 
Dưới đền chỉ xin khấn chữ bình an.

Dịch thơ: 
Ấn phù "rùa cá" khoác trên mình, 
Mặc tướng cùng quan khấn việc binh; 
Kẻ học trò xoàng không nguyện ước, 
Dưới đền xin khấn chữ yên lành. 
                                           Trần Lê Văn 

II 
Lưng đeo ấn cá, ấn rùa, 
Những việc như thế để chờ tướng, quan; 
Thư sinh bạc nhược yếu hèn, 
Kính xin hai chữ Bình an cửa đền. 
                                           Đỗ Quang Liên 


Chú thích:
- Bài thơ làm vào năm 1294, cùng với bài Tụng giá tây chinh yết Tản Viên từ 
- Bạch Hạc là ngã ba sông Thao, sông Đà và sông Lô hợp lưu, thuộc tỉnh Phú Thọ. 
- Ấn hình cá, hình rùa là những thứ triều đình tặng cho các võ tướng có nhiều chiến công.


Oct 21, 2013

150. Tụng giá tây chinh yết Tản Viên từ

Tác giả: Nguyễn Sĩ Cố (?-1312) 阮士顧
從駕西征謁傘圓祠
山似天高晨岳靈
心香纔叩已聞聲
媚娘亦具威儀者
且為書生保此行

Sơn tự thiên cao thần nhạc linh 
Tâm hương tài khấu dĩ văn thanh 
Mỵ nương diệc cụ uy nghi giả 
Thả vị thư sinh bảo thử hành

Dịch nghĩa: 
Phò giá nhà vua chinh phạt phía tây, bái yết đền thờ Tản Viên 
Núi cao như trời, thần núi linh thiêng, 
Một nén hương lòng vừa cúi đầu khấn đã nghe tiếng vọng; 
Mỵ Nương nếu là vị thần đầy đủ uy nghi, 
Thì hãy phù hộ kẻ thư sinh trong chuyến đi này.

Dịch thơ:
Núi chạm trời cao, thần núi linh, 
Hương lòng vừa khấn đã nghe danh;
Mỵ Nương nếu quả uy nghi thực, 
Giúp học trò qua cuộc viễn trình. 
                     Phạm Tú Châu - Huệ Chi 

II 
Khí thiêng, núi dựng ngất trời, 
Khấu đầu, Thần đã thấu lời cầu xin; 
Mỵ Nương oai vũ hiển linh, 
Chinh Tây, phù hộ thư sinh chuyến này. 
                                                  Đỗ Quang Liên


Chú thích:
- Sĩ Cố để lại tiểu sử chưa thật rõ ràng về năm sinh, quê quán và hành trạng. Chỉ biết, ông trước khi làm quan đã mở trường dạy học, nhiều học trò giỏi như Phạm Ngộ, Phạm Mại. Năm 1277, được vua Trần Thánh Tông vời về kinh nhậm chức Nội thị học sỹ, dạy Hoàng tử Trần Khâm. Năm 1306, đời vua Trần Anh Tông (1293-1313) thăng Học sỹ, coi việc giảng Ngũ kinh ở gác Thiên Chương. Năm 1312, theo vua Trần Anh Tông đi đánh phía Nam, dọc đường ông bị bệnh, mất. Ông có tài làm thơ, phú tiếng Việt (nước ta mới bắt đầu hình thành) và tài khôi hài, người đương thời sánh ông với Đông Phương Sóc đời Hán.
- Tản Viên: tên núi Ba Vì, Hà Nội, nơi có truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. 
- Mỵ Nương: con gái vua Hùng thứ 18, được gả cho Sơn Tinh.




Oct 19, 2013

Tặng An Lãng tự Phổ Minh thiền sư

Tác giả: Trần Thì Kiến (1260–1330) 陳時見
贈安朗寺普明禪師
隱不林泉真大隱
修於家寺即真修
此日參禪如夢覺
休將往事怪潮州

Ẩn bất lâm tuyền chân đại ẩn 
Tu ư gia tự tức chân tu 
Thử nhật tham thiền như mộng giác 
Hưu tương vãng sự quái trào châu

Dịch nghĩa: 
Đề tặng thiền sư Phổ Minh ở chùa An Lãng 
Ẩn cư mà không ở nơi rừng suối mới là đại ẩn, 
Tu hành ngay tại nơi chùa nhà mới thực chân tu; 
Hôm nay được tham vấn đạo Thiền, như người trong mộng chợt tỉnh, 
Đừng đem việc đã qua mà trách ông Thứ sử Trào Châu.

Dịch thơ: 
Rừng suối phải đâu là đại ẩn, 
Chùa nhà ấy mới thực chân tu; 
Nay được tham Thiền như mộng tỉnh, 
Đừng đem chuyện cũ trách Trào Châu. 
                                           Nguyễn Đổng Chi. 

II 
Đại ẩn không ở núi rừng, 
Chùa nhà tu tập, đúng đường chân tu; 
Tham Thiền chợt tỉnh mộng du, 
Chuyện qua trách cứ Trào Châu làm gì! 
                                                       Đỗ Quang Liên 
 

Chú thích: 
- Trần Thì Kiến, người Cự Xá, Đông Triều, Quảng Ninh, là môn khách của Hưng đạo đại vương Trần Quốc Tuấn, ông được tiến cử với vua Trần Nhân Tông làm An Phủ sứ Thiên Trường, sau lên Tả tham tri chính sự, Tả bộc xạ. Người đời khen là “Khả dĩ chiết ngục” nghĩa là phân tích hết mọi lẽ rồi mới kết tội. 
- Trào Châu thuộc Quảng Đông (Trung Quốc), ám chỉ Hàn Dũ thời Đường Hiến Tông, bị biếm làm Thứ sử Trào Châu, vì viết bài Phật cốt biểu luận, can ngăn việc rước xương Phật. Tuy nhiên đến cuối đời Hàn Dũ lại theo Phật học.




Oct 18, 2013

Thân như (Kệ)

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
身如 (偈)
身如呼吸鼻中氣
世似風行嶺外雲
杜鵑啼断月如晝
不値尋常空過春

Thân như hô hấp tị trung khí 
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân 
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú 
Bất trị tầm thường không quá xuân

Dịch nghĩa: 
Thân, thế (lời kệ) 
Thân như hơi trong mũi hít vào thở ra,
Đời tựa mây ở ngoài núi, theo gió đưa đi; 
Chim Đỗ Quyên kêu dứt, trăng như ban ngày, 
Chớ là kẻ tầm thường uổng phí hết thời xuân.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 
Thân như hơi thở vào, ra mũi, 
Đời giống mây theo gió núi xa; 
Tiếng cuốc kêu dừng, trăng tựa sáng, 
Tầm thường chớ để xuân trôi qua. 

II 
Thân: hơi qua mũi vào, ra, 
Đời: mây theo gió gần, xa núi rừng; 
Trăng như ngày sáng, Quyên dừng, 
Thời xuân chớ để tầm thường trôi qua.


Chú thích: 
Lời kệ trích trong bài thuyết pháp của vua Trần Nhân Tông tại chùa Sùng Nghiêm (theo Thánh Tăng ngữ lục).




Oct 17, 2013

Trúc nô minh

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
竹奴銘
傲雪心虛
凌霜節勁
假尔為奴
恐非天性

Ngạo tuyết tâm hư
Lăng sương tiết kính
Giả nhĩ vi nô
Khủng phi thiên tính

Dịch nghĩa: 
Bài minh đề Trúc nô 
Trải tuyết lạnh mà tâm thông suốt, 
Dầu giãi trong sương mà tính cứng cỏi; 
Mượn ngươi làm tôi đòi, 
Sợ rằng trái với tính tự nhiên của nhà ngươi.

Dịch thơ: 
Tâm không rãi tuyết, 
Đốt cứng phơi sương; 
Mượn ngươi làm nô, 
Sợ trái tính thường. 
                  Cao Xuân Huy 

II 
Tuyết dầm, tâm vẫn hư không, 
Đốt cứng, dù phải phơi sương chẳng nề; 
Mượn ngươi làm kẻ nô tì, 
Sợ rằng làm trái mất đi tính thường. 
                                          Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Bài này trong sách Nam Ông mộng lục có khác, nhất là 2 câu đầu, và ghi là của Trần Nghệ Tông, chưa có điều kiện xác định. 
- Trúc nô: theo Từ Hải thì còn có tên là Thanh nô hay Trúc phu nhân, là một loại gối tựa hoặc gối kê tay đan bằng sậy hoặc trúc, dùng trong mùa nực cho mát.



Oct 16, 2013

Sơn phòng mạn hứng kỳ 2

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
山房漫興其二
是非念逐朝花落
名利心隨夜雨寒
花盡雨晴山寂寂
一聲啼鳥又春殘

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn 
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch 
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn

Dịch nghĩa: 
Mạn hứng ở Sơn Phòng (bài 2) 
Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm, 
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm; 
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch, 
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn.

Dịch thơ:
Phải, trái rụng theo hoa buổi sớm, 
Lợi, danh lạnh với trận mưa đêm; 
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lặng, 
Xuân cõi còn dư một tiếng chim. 
                                        Đỗ Văn Hỷ 

II 
Đúng, sai: hoa sớm rụng rời, 
Lợi, danh: nguội lạnh bầu trời mưa đêm; 
Hết hoa, mưa tạnh, núi êm, 
Đâu đây vẳng một tiếng chim – xuân tàn. 
                                                       Đỗ Quang Liên

Improvisation à Sơn Phòng (2) 
L’idée de la raison et du tort poursuit les fleurs matinales tombant, 
Le désir de l’honneur et de la richesse suit la pluie nocturne refroidissant, 
Les fleurs sont tombées, la pluie a cessé, la montagne devient silencieuse, 
Un cri d’oiseau announce que la printemps prend fin. 
Traduit par Đỗ Quang Liên 





Oct 15, 2013

145. Lạng Châu vãn cảnh

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
諒州晚景
古寺淒涼秋靄外
漁船蕭瑟暮鐘初
水明山靜白鷗過
風定雲閒紅樹疏

Cổ tự thê lương thu ái ngoại 
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ 
Thuỷ minh sơn tĩnh bạch âu quá 
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ

Dịch nghĩa: 
Cảnh chùa ở Châu Lạng 
Ngôi chùa cổ lạnh lẽo sau lớp khói mùa thu, 
Thuyền câu hiu quạnh chuông chùa bắt đầu điểm; 
Nước trong núi lặng, chim âu trắng bay qua, 
Gió im, mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ.

Dịch thơ: 
Chùa xưa lạnh lẽo khói thu mờ, 
Chiều quạnh thuyền câu, chuông vẳng đưa; 
Núi lặng, nước quang, âu trắng lượn, 
Tạnh mây, im gió, đỏ cây thưa. 
                                          Trần Lê Văn 

II 
Thu mờ, cổ tự thê lương, 
Thuyền câu hiu quạnh, vẳng buông chuông chùa; 
Nước trong, núi tĩnh, âu qua, 
Mây nhàn, gió lặng, cây thưa sắc hồng… 
                                                         Đỗ Quang Liên

Paysage au crépuscule du district Lạng 
La vieille pagode isolée est abritée sous le brouillard d’automne,   
Le sampan de pêche se tient tristement aux premiers sons de la cloche du soir; 
L’eau est pure, le mont calme, survole la cigogne blanche, 
Le vent s’arrête, les nuages flânent, les feuilles rouges se parsèment sur les branches. 
Traduit par Đỗ Quang Liên  


Chú thích: 
Châu Lạng đời Trần thuộc lộ Lạng Giang, gồm các huyện Yên Thế, Yên Ninh, Cổ Lũng, Bảo Lộc, tức một phần tỉnh Bắc Giang ngày nay.



Oct 14, 2013

Vũ Lâm thu vãn

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
武林秋晚
畫橋倒影蘸溪橫
一抹斜陽水外明
寂寂千山紅葉落
湿雲如梦逺鐘聲

Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành 
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại minh 
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc 
Thấp vân như mộng viễn chung thanh

Dịch nghĩa: 
Chiều thu ở Vũ Lâm 
Chiếc cầu chạm vẽ đảo bóng vắt ngang dòng suối, 
Một vệt nắng chiều rực sáng bên ngoài ngấn nước; 
Nghìn núi lặng tờ, lá đỏ rơi, 
Mây ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng.

Dịch thơ: 
Lòng khe in ngược bóng cầu hoa, 
Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà;
Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ, 
Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa. 
                                                    Băng Thanh 

II 
Bóng cầu dòng suối vắt ngang, 
Ánh chiều một vệt ngoài làn nước trong; 
Ngàn non tĩnh – lá rụng hồng, 
Mây vờn như mộng, xa buông chuông chùa. 
                                                            Đỗ Quang Liên

Soir d’automne à Vũ Lâm 
L’image renverseé du pont enjambant les bords du ruisseau, 
Une trâineé solaire du soir éclaire au dehors de l’eau; 
Les mille monts silencieux sont doreés de feuilles tombées, 
Les humides nuages sont comme en rêve une cloche tinte éloigneé. 
Traduit par Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Vũ Lâm: Việt âm thi tập chú là tên động. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì động này ở xã Vũ Lâm, nay thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. 
Câu cuối có sách ghi: Thấp vân hòa mộng (hoặc Lộ ) tống chung thanh (湿雲和梦送鐘聲)


Oct 12, 2013

Đề Phổ Minh tự thủy tạ

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
題普明寺水榭
薰盡千頭滿座香
水流初起不多涼
老榕影裡僧關閉
第一蟬聲秋思長

Huân tận thiên đầu mạn toạ hương
Thuỷ lưu sơ khởi bất đa lương 
Lão dung ảnh lý tăng quan bế 
Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường

Dịch nghĩa:
Đề nhà thuỷ tạ chùa Phổ Minh 
Xông hết nghìn nén hương, khắp nhà thuỷ tạ thơm ngào ngạt, 
Dòng nước mới dâng không lạnh lắm; 
Dưới bóng đa già, cổng chùa đóng im ỉm, 
Một tiếng ve đầu tiên, tứ thu man mác.

Dịch thơ: 
I
Nghìn hương thắp hết ngát đầy nhà, 
Làn nước hiu hiu gió lạnh qua; 
Dưới bóng đa già chùa vắng vẻ, 
Tiếng ve khơi động tứ thu xa. 
                                        Ngô Tất Tố

II 
Hương thơm ngào ngạt khắp nhà, 
Mát chưa nhiều mấy, nước vừa mới lên; 
Bóng đa rợp kín cửa thiền, 
Tứ thu dậy, tiếng ve ngân sớm ngày. 
                                                   Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Chùa Phổ Minh: Việt âm thi tập chú: Trần Thái Tông về chơi hương Tức mặc, xây dựng cung Trùng Hoa, lại xây ở phía Tây cung một ngôi chùa, gọi tên là Phổ Minh. Ngôi chùa này thành nơi du ngoạn, nghỉ ngơi, của các vua Trần. 
Thời Trần, Tức Mặc thuộc phủ Thiên Trường. Hiện nay, tại làng Tức Mặc, thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Định, còn chùa và tháp Phổ Minh.





Oct 11, 2013

Nguyệt

Tác giả: Trần Khâm Trần Nhân Tông 陳昑陳仁宗
半窗燈影滿床書
露滴秋庭夜氣虛
睡起砧聲無覔處
木樨花上月來初

Bán song đăng ảnh mãn sàng thư 
Lộ chích thu đình dạ khí hư 
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ 
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.

Dịch nghĩa: 
Trăng 
Qua cửa sổ, ta thấy bóng cây đèn và giá đầy sách, 
Móc nhỏ giọt trên sân mùa thu, hơi đêm thanh tịnh; 
Tỉnh giấc, tiếng chày đập vải không biết ở đâu, 
Trên cành hoa quế, trăng vừa mọc.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 
Nửa song, giá sách, bóng cây đèn, 
Sương giọt, sân thu thoảng khí đêm; 
Thức giấc, tiếng chày đâu chẳng rõ, 
Trên đầu ngọn quế, nguyệt vừa lên. 

II 
Nửa song, giá sách, bóng đèn, 
Sân thu sương giọt, khí đêm ảo mờ; 
Tiếng chày đập vải nơi mô? 
Trên cành hoa quế, trăng vừa mới lên.

La lune 
La lampe répand son ombre, l’étagère est pleine de livres, la fenêtre mi-fermée, 
La nuit est calme et séreine, sur la cour d’automne tombe légèrement la rosée; 
Au réveil, on entend quelque part le bruit du pilon de blanchissage, 
Sur le faîte du cannelier, la lune vient de se lever
Traduit par Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông, là một nhà văn hóa, nhà thơ xuất sắc thế kỷ XIII, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm ở Việt Nam.



Oct 10, 2013

Thiên Trường vãn vọng

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
天長晚望
村後村前淡似煙
半無半有夕陽邊
牧童笛裡歸牛盡
白鷺雙雙飛下田

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền

Dịch nghĩa: 
Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường 
Trước thôn, sau thôn, đều mờ mờ như khói phủ, 
Bên bóng chiều, cảnh vật nửa như có, nửa như không; 
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết, 
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.

Dịch thơ:
Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng, 
Bóng chiều dường có, lại dường không; 
Mục đồng, sáo vẳng, trâu về hết, 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. 
                                               Ngô Tất Tố 
II 
Trước, sau thôn tựa khói mờ, 
Nửa không, nửa có, mơ mơ ánh chiều; 
Trâu theo sáo trẻ bước đều, 
Đàn cò bay lượn rủ nhau xuống đồng. 
                                                 Đỗ Quang Liên 





Oct 7, 2013

Ca trù: Xưa nay hữu chí cánh thành

(Lời bài Ca trù chữ Hán)
Tác giả: Khuyết danh 缺名
 
大丈夫不狀元不宰相
亦虚生
半千年遭際聖明
幼而學壮而行眞做
見説讀書天不負
君莫嫌遲暮遭逢
天地爐陰陽炭萬物銅
随所鑄
如農夫如釣徒如牧竪
古之人未遇皆然
時乎魚水良緣
千萬古名懸罔極
君但覺如吾勤吾修吾德
吾職吾力吾行
古來有志更成

Đại trượng phu bất trạng nguyên bất tể tướng
Diệc hư sinh
Bán thiên niên tao tế thánh minh
Ấu nhi học tráng nhi hành chân tố
Kiến thuyết độc thư thiên bất phụ
Quân mạc hiềm trì mộ tao phùng.
Thiên địa lô âm dương thán vạn vật đồng
Tùy sở chú
Như nông phu như điếu đồ như mục thụ
Cổ chi nhân vị ngộ giai nhiên
Thời hồ ngư thủy lương duyên
Thiên vạn cổ danh huyền võng cực
Quân đãn giác như ngô cần ngô tu ngô đức
Ngô chức ngô lực ngô hành
Cổ lai hữu chí cánh thành


Dịch thơ: Đỗ Quang Liên

Đại trượng phu, không Trạng Nguyên, không Tể Tướng,
Cũng hư sinh.
Nửa nghìn năm mới gặp Thánh minh,
Bé thì học, lớn thì hành, phải cố.
Câu nói: Đọc sách, trời không phụ,
Bạn chớ lo gặp gỡ muộn màng!
Trời Đất là lò, Âm Dương là than, muôn vật là Đồng.
Tùy theo rèn đúc,
Nên nông phu, nên bác chài, anh chăn gia súc.
Người đời xưa, chưa gặp, chưa nên.
Lúc gặp thời cá, nước lương duyên,
Ngàn vạn thuở, tiếng thơm rền chẳng dứt.
Bạn nên biết: ta cần cù, ta tu thân, ta luyện đức,
Ta có chức, ta cố gắng, ta thực hành.
Xưa nay hữu chí cánh thành!

 


Oct 5, 2013

140. Xuân vãn

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
春晚
年少何曾了色空
一春心在百花中
如今勘破東皇面
禪板蒲團看墜紅

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không 
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung 
Như kim khám phá đông hoàng diện 
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng

Dịch nghĩa: 
Chiều xuân 
Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ "sắc" với "không", 
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa; 
Ngày nay đã khám phá được bộ mặt Chúa Xuân, 
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng.

Dịch thơ: 
Tuổi trẻ chưa tường lẽ Sắc, Không, 
Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng; 
Chúa Xuân nay đã thành quen mặt, 
Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng. 
                                            Ngô Tất Tố 

II 
Thời trai chưa thấu Sắc, Không, 
Tuổi xanh phơi phới gửi lòng trăm hoa; 
Chúa Xuân, giờ đã biết ra, 
Ngồi thiền nệm cỏ nhìn hoa rụng hồng!
Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Chúa Xuân: Đông Hoàng tức Đông Quân là thần mùa Xuân. Bài Lập xuân hậu thi của Vương Sơ có câu: 
“Đông Quân kha bội hưởng san san 
Thanh ngự đa thì há cửu quan”
nghĩa là: Chúa Xuân đeo ngọc kêu lanh canh, Cưỡi ngựa xanh nhiều lúc đi xuống chín cửa quan. 
- Bồ đoàn: là tấm nệm bằng cỏ, hình tròn, các nhà sư thường dùng trong lúc ngồi thiền định hay lễ bái. Việt âm thi tập chú: 
"Thiền gia chi thiền bản bồ đoàn tức Nhân gia mộc bản bồ tịch dã", 
nghĩa là: Thiền bản bồ đoàn, thuật ngữ nhà Thiền, là loại chiếu bằng cỏ Bồ, cũng là chiếu cói của nhà dân.


Oct 4, 2013

Khuê oán

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
閨怨
睡起鉤簾看墜紅
黃鸝不語怨東風
無端落日西樓下
花影枝頭盡向東

Thuỵ khởi câu liêm khán truỵ hồng 
Hoàng ly bất ngữ oán đông phong 
Vô đoan lạc nhật tây lâu hạ 
Hoa ảnh chi đầu tận hướng đông

Dịch nghĩa: 
Niềm oán hận của người khuê phụ 
Ngủ dậy, cuốn mành xem cánh hồng rụng, 
Chim oanh vàng bặt tiếng, oán gió Đông; 
Không dưng mặt trời lặn phía ngoài lầu Tây, 
Đầu cành bóng hoa đều hướng về phía Đông.

Dịch thơ: 
Tỉnh giấc, rèm nâng, ngó rụng hồng, 
Hoàng Anh im tiếng, giận Đông phong; 
Lầu Tây vô cớ, vầng dương lặn, 
Cả bóng hoa cành ngả hướng Đông. 
                                              Trần lê Văn 

II 
Dậy rồi, rèm cuốn, nhìn hoa, 
Oanh vàng im tiếng, oán mùa xuân đi; 
Ánh ngày lặn phía lầu Tây, 
Bóng hoa tất cả quay về hướng Đông. 
                                                 Đỗ Quang Liên

III
Complainte de la femme solitaire 
Se réveillant, elle enroule le store et regarde les fleurs tombeés, 
Le loriot se tait regrettant le vent printanier! 
Le soleil se couche indifférement au dehors du palais de l’Ouest, 
Du bout des branches, l’ombre des fleurs s’oriente vers l’Est.
Traduit par Đỗ Quang Liên