Showing posts with label Trần Nhân Tông. Show all posts
Showing posts with label Trần Nhân Tông. Show all posts

Oct 18, 2013

Thân như (Kệ)

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
身如 (偈)
身如呼吸鼻中氣
世似風行嶺外雲
杜鵑啼断月如晝
不値尋常空過春

Thân như hô hấp tị trung khí 
Thế tự phong hành lĩnh ngoại vân 
Đỗ quyên đề đoạn nguyệt như trú 
Bất trị tầm thường không quá xuân

Dịch nghĩa: 
Thân, thế (lời kệ) 
Thân như hơi trong mũi hít vào thở ra,
Đời tựa mây ở ngoài núi, theo gió đưa đi; 
Chim Đỗ Quyên kêu dứt, trăng như ban ngày, 
Chớ là kẻ tầm thường uổng phí hết thời xuân.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 
Thân như hơi thở vào, ra mũi, 
Đời giống mây theo gió núi xa; 
Tiếng cuốc kêu dừng, trăng tựa sáng, 
Tầm thường chớ để xuân trôi qua. 

II 
Thân: hơi qua mũi vào, ra, 
Đời: mây theo gió gần, xa núi rừng; 
Trăng như ngày sáng, Quyên dừng, 
Thời xuân chớ để tầm thường trôi qua.


Chú thích: 
Lời kệ trích trong bài thuyết pháp của vua Trần Nhân Tông tại chùa Sùng Nghiêm (theo Thánh Tăng ngữ lục).




Oct 17, 2013

Trúc nô minh

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
竹奴銘
傲雪心虛
凌霜節勁
假尔為奴
恐非天性

Ngạo tuyết tâm hư
Lăng sương tiết kính
Giả nhĩ vi nô
Khủng phi thiên tính

Dịch nghĩa: 
Bài minh đề Trúc nô 
Trải tuyết lạnh mà tâm thông suốt, 
Dầu giãi trong sương mà tính cứng cỏi; 
Mượn ngươi làm tôi đòi, 
Sợ rằng trái với tính tự nhiên của nhà ngươi.

Dịch thơ: 
Tâm không rãi tuyết, 
Đốt cứng phơi sương; 
Mượn ngươi làm nô, 
Sợ trái tính thường. 
                  Cao Xuân Huy 

II 
Tuyết dầm, tâm vẫn hư không, 
Đốt cứng, dù phải phơi sương chẳng nề; 
Mượn ngươi làm kẻ nô tì, 
Sợ rằng làm trái mất đi tính thường. 
                                          Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Bài này trong sách Nam Ông mộng lục có khác, nhất là 2 câu đầu, và ghi là của Trần Nghệ Tông, chưa có điều kiện xác định. 
- Trúc nô: theo Từ Hải thì còn có tên là Thanh nô hay Trúc phu nhân, là một loại gối tựa hoặc gối kê tay đan bằng sậy hoặc trúc, dùng trong mùa nực cho mát.



Oct 16, 2013

Sơn phòng mạn hứng kỳ 2

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
山房漫興其二
是非念逐朝花落
名利心隨夜雨寒
花盡雨晴山寂寂
一聲啼鳥又春殘

Thị phi niệm trục triêu hoa lạc
Danh lợi tâm tuỳ dạ vũ hàn 
Hoa tận vũ tình sơn tịch tịch 
Nhất thanh đề điểu hựu xuân tàn

Dịch nghĩa: 
Mạn hứng ở Sơn Phòng (bài 2) 
Niềm thị phi rụng theo hoa buổi sớm, 
Lòng danh lợi lạnh theo trận mưa đêm; 
Hoa rụng hết, mưa đã tạnh, núi non tịch mịch, 
Một tiếng chim kêu, lại cảnh xuân tàn.

Dịch thơ:
Phải, trái rụng theo hoa buổi sớm, 
Lợi, danh lạnh với trận mưa đêm; 
Hoa tàn, mưa tạnh, non im lặng, 
Xuân cõi còn dư một tiếng chim. 
                                        Đỗ Văn Hỷ 

II 
Đúng, sai: hoa sớm rụng rời, 
Lợi, danh: nguội lạnh bầu trời mưa đêm; 
Hết hoa, mưa tạnh, núi êm, 
Đâu đây vẳng một tiếng chim – xuân tàn. 
                                                       Đỗ Quang Liên

Improvisation à Sơn Phòng (2) 
L’idée de la raison et du tort poursuit les fleurs matinales tombant, 
Le désir de l’honneur et de la richesse suit la pluie nocturne refroidissant, 
Les fleurs sont tombées, la pluie a cessé, la montagne devient silencieuse, 
Un cri d’oiseau announce que la printemps prend fin. 
Traduit par Đỗ Quang Liên 





Oct 15, 2013

145. Lạng Châu vãn cảnh

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
諒州晚景
古寺淒涼秋靄外
漁船蕭瑟暮鐘初
水明山靜白鷗過
風定雲閒紅樹疏

Cổ tự thê lương thu ái ngoại 
Ngư thuyền tiêu sắt mộ chung sơ 
Thuỷ minh sơn tĩnh bạch âu quá 
Phong định vân nhàn hồng thụ sơ

Dịch nghĩa: 
Cảnh chùa ở Châu Lạng 
Ngôi chùa cổ lạnh lẽo sau lớp khói mùa thu, 
Thuyền câu hiu quạnh chuông chùa bắt đầu điểm; 
Nước trong núi lặng, chim âu trắng bay qua, 
Gió im, mây nhởn nhơ, cây lơ thơ lá đỏ.

Dịch thơ: 
Chùa xưa lạnh lẽo khói thu mờ, 
Chiều quạnh thuyền câu, chuông vẳng đưa; 
Núi lặng, nước quang, âu trắng lượn, 
Tạnh mây, im gió, đỏ cây thưa. 
                                          Trần Lê Văn 

II 
Thu mờ, cổ tự thê lương, 
Thuyền câu hiu quạnh, vẳng buông chuông chùa; 
Nước trong, núi tĩnh, âu qua, 
Mây nhàn, gió lặng, cây thưa sắc hồng… 
                                                         Đỗ Quang Liên

Paysage au crépuscule du district Lạng 
La vieille pagode isolée est abritée sous le brouillard d’automne,   
Le sampan de pêche se tient tristement aux premiers sons de la cloche du soir; 
L’eau est pure, le mont calme, survole la cigogne blanche, 
Le vent s’arrête, les nuages flânent, les feuilles rouges se parsèment sur les branches. 
Traduit par Đỗ Quang Liên  


Chú thích: 
Châu Lạng đời Trần thuộc lộ Lạng Giang, gồm các huyện Yên Thế, Yên Ninh, Cổ Lũng, Bảo Lộc, tức một phần tỉnh Bắc Giang ngày nay.



Oct 14, 2013

Vũ Lâm thu vãn

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
武林秋晚
畫橋倒影蘸溪橫
一抹斜陽水外明
寂寂千山紅葉落
湿雲如梦逺鐘聲

Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành 
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại minh 
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc 
Thấp vân như mộng viễn chung thanh

Dịch nghĩa: 
Chiều thu ở Vũ Lâm 
Chiếc cầu chạm vẽ đảo bóng vắt ngang dòng suối, 
Một vệt nắng chiều rực sáng bên ngoài ngấn nước; 
Nghìn núi lặng tờ, lá đỏ rơi, 
Mây ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng.

Dịch thơ: 
Lòng khe in ngược bóng cầu hoa, 
Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà;
Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ, 
Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa. 
                                                    Băng Thanh 

II 
Bóng cầu dòng suối vắt ngang, 
Ánh chiều một vệt ngoài làn nước trong; 
Ngàn non tĩnh – lá rụng hồng, 
Mây vờn như mộng, xa buông chuông chùa. 
                                                            Đỗ Quang Liên

Soir d’automne à Vũ Lâm 
L’image renverseé du pont enjambant les bords du ruisseau, 
Une trâineé solaire du soir éclaire au dehors de l’eau; 
Les mille monts silencieux sont doreés de feuilles tombées, 
Les humides nuages sont comme en rêve une cloche tinte éloigneé. 
Traduit par Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Vũ Lâm: Việt âm thi tập chú là tên động. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì động này ở xã Vũ Lâm, nay thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. 
Câu cuối có sách ghi: Thấp vân hòa mộng (hoặc Lộ ) tống chung thanh (湿雲和梦送鐘聲)


Oct 12, 2013

Đề Phổ Minh tự thủy tạ

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
題普明寺水榭
薰盡千頭滿座香
水流初起不多涼
老榕影裡僧關閉
第一蟬聲秋思長

Huân tận thiên đầu mạn toạ hương
Thuỷ lưu sơ khởi bất đa lương 
Lão dung ảnh lý tăng quan bế 
Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường

Dịch nghĩa:
Đề nhà thuỷ tạ chùa Phổ Minh 
Xông hết nghìn nén hương, khắp nhà thuỷ tạ thơm ngào ngạt, 
Dòng nước mới dâng không lạnh lắm; 
Dưới bóng đa già, cổng chùa đóng im ỉm, 
Một tiếng ve đầu tiên, tứ thu man mác.

Dịch thơ: 
I
Nghìn hương thắp hết ngát đầy nhà, 
Làn nước hiu hiu gió lạnh qua; 
Dưới bóng đa già chùa vắng vẻ, 
Tiếng ve khơi động tứ thu xa. 
                                        Ngô Tất Tố

II 
Hương thơm ngào ngạt khắp nhà, 
Mát chưa nhiều mấy, nước vừa mới lên; 
Bóng đa rợp kín cửa thiền, 
Tứ thu dậy, tiếng ve ngân sớm ngày. 
                                                   Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Chùa Phổ Minh: Việt âm thi tập chú: Trần Thái Tông về chơi hương Tức mặc, xây dựng cung Trùng Hoa, lại xây ở phía Tây cung một ngôi chùa, gọi tên là Phổ Minh. Ngôi chùa này thành nơi du ngoạn, nghỉ ngơi, của các vua Trần. 
Thời Trần, Tức Mặc thuộc phủ Thiên Trường. Hiện nay, tại làng Tức Mặc, thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Định, còn chùa và tháp Phổ Minh.





Oct 11, 2013

Nguyệt

Tác giả: Trần Khâm Trần Nhân Tông 陳昑陳仁宗
半窗燈影滿床書
露滴秋庭夜氣虛
睡起砧聲無覔處
木樨花上月來初

Bán song đăng ảnh mãn sàng thư 
Lộ chích thu đình dạ khí hư 
Thụy khởi châm thanh vô mịch xứ 
Mộc tê hoa thượng nguyệt lai sơ.

Dịch nghĩa: 
Trăng 
Qua cửa sổ, ta thấy bóng cây đèn và giá đầy sách, 
Móc nhỏ giọt trên sân mùa thu, hơi đêm thanh tịnh; 
Tỉnh giấc, tiếng chày đập vải không biết ở đâu, 
Trên cành hoa quế, trăng vừa mọc.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 
Nửa song, giá sách, bóng cây đèn, 
Sương giọt, sân thu thoảng khí đêm; 
Thức giấc, tiếng chày đâu chẳng rõ, 
Trên đầu ngọn quế, nguyệt vừa lên. 

II 
Nửa song, giá sách, bóng đèn, 
Sân thu sương giọt, khí đêm ảo mờ; 
Tiếng chày đập vải nơi mô? 
Trên cành hoa quế, trăng vừa mới lên.

La lune 
La lampe répand son ombre, l’étagère est pleine de livres, la fenêtre mi-fermée, 
La nuit est calme et séreine, sur la cour d’automne tombe légèrement la rosée; 
Au réveil, on entend quelque part le bruit du pilon de blanchissage, 
Sur le faîte du cannelier, la lune vient de se lever
Traduit par Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Trần Nhân Tông (1258-1308) là con đầu của Trần Thánh Tông, là một nhà văn hóa, nhà thơ xuất sắc thế kỷ XIII, sáng lập dòng Thiền Trúc Lâm ở Việt Nam.



Oct 10, 2013

Thiên Trường vãn vọng

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
天長晚望
村後村前淡似煙
半無半有夕陽邊
牧童笛裡歸牛盡
白鷺雙雙飛下田

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền

Dịch nghĩa: 
Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường 
Trước thôn, sau thôn, đều mờ mờ như khói phủ, 
Bên bóng chiều, cảnh vật nửa như có, nửa như không; 
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết, 
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.

Dịch thơ:
Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng, 
Bóng chiều dường có, lại dường không; 
Mục đồng, sáo vẳng, trâu về hết, 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. 
                                               Ngô Tất Tố 
II 
Trước, sau thôn tựa khói mờ, 
Nửa không, nửa có, mơ mơ ánh chiều; 
Trâu theo sáo trẻ bước đều, 
Đàn cò bay lượn rủ nhau xuống đồng. 
                                                 Đỗ Quang Liên 





Oct 5, 2013

140. Xuân vãn

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
春晚
年少何曾了色空
一春心在百花中
如今勘破東皇面
禪板蒲團看墜紅

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không 
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung 
Như kim khám phá đông hoàng diện 
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng

Dịch nghĩa: 
Chiều xuân 
Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ "sắc" với "không", 
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa; 
Ngày nay đã khám phá được bộ mặt Chúa Xuân, 
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng.

Dịch thơ: 
Tuổi trẻ chưa tường lẽ Sắc, Không, 
Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng; 
Chúa Xuân nay đã thành quen mặt, 
Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng. 
                                            Ngô Tất Tố 

II 
Thời trai chưa thấu Sắc, Không, 
Tuổi xanh phơi phới gửi lòng trăm hoa; 
Chúa Xuân, giờ đã biết ra, 
Ngồi thiền nệm cỏ nhìn hoa rụng hồng!
Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Chúa Xuân: Đông Hoàng tức Đông Quân là thần mùa Xuân. Bài Lập xuân hậu thi của Vương Sơ có câu: 
“Đông Quân kha bội hưởng san san 
Thanh ngự đa thì há cửu quan”
nghĩa là: Chúa Xuân đeo ngọc kêu lanh canh, Cưỡi ngựa xanh nhiều lúc đi xuống chín cửa quan. 
- Bồ đoàn: là tấm nệm bằng cỏ, hình tròn, các nhà sư thường dùng trong lúc ngồi thiền định hay lễ bái. Việt âm thi tập chú: 
"Thiền gia chi thiền bản bồ đoàn tức Nhân gia mộc bản bồ tịch dã", 
nghĩa là: Thiền bản bồ đoàn, thuật ngữ nhà Thiền, là loại chiếu bằng cỏ Bồ, cũng là chiếu cói của nhà dân.


Oct 4, 2013

Khuê oán

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
閨怨
睡起鉤簾看墜紅
黃鸝不語怨東風
無端落日西樓下
花影枝頭盡向東

Thuỵ khởi câu liêm khán truỵ hồng 
Hoàng ly bất ngữ oán đông phong 
Vô đoan lạc nhật tây lâu hạ 
Hoa ảnh chi đầu tận hướng đông

Dịch nghĩa: 
Niềm oán hận của người khuê phụ 
Ngủ dậy, cuốn mành xem cánh hồng rụng, 
Chim oanh vàng bặt tiếng, oán gió Đông; 
Không dưng mặt trời lặn phía ngoài lầu Tây, 
Đầu cành bóng hoa đều hướng về phía Đông.

Dịch thơ: 
Tỉnh giấc, rèm nâng, ngó rụng hồng, 
Hoàng Anh im tiếng, giận Đông phong; 
Lầu Tây vô cớ, vầng dương lặn, 
Cả bóng hoa cành ngả hướng Đông. 
                                              Trần lê Văn 

II 
Dậy rồi, rèm cuốn, nhìn hoa, 
Oanh vàng im tiếng, oán mùa xuân đi; 
Ánh ngày lặn phía lầu Tây, 
Bóng hoa tất cả quay về hướng Đông. 
                                                 Đỗ Quang Liên

III
Complainte de la femme solitaire 
Se réveillant, elle enroule le store et regarde les fleurs tombeés, 
Le loriot se tait regrettant le vent printanier! 
Le soleil se couche indifférement au dehors du palais de l’Ouest, 
Du bout des branches, l’ombre des fleurs s’oriente vers l’Est.
Traduit par Đỗ Quang Liên






Oct 3, 2013

Nhị nguyệt thập nhất nhật dạ

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
二月十一日夜
歡伯澆愁風味長
桃笙竹簞穩龍床
一天如水月如晝
花影滿窗春夢長

Hoan bá kiêu sầu phong vị trường 
Đào sinh trúc đạm ổn long sàng 
Nhất thiên như thuỷ nguyệt như trú
Hoa ảnh mãn song xuân mộng trường

Dịch nghĩa: 
Đêm mười một tháng hai 
Chén rượu rửa sầu có phong vị đậm đà, 
Chiếu trúc Đào Sinh yên ổn trên giường rồng; 
Trời trong như nước, trăng sáng như ban ngày, 
Bóng hoa tràn ngập cửa sổ, giấc mộng đêm xuân triền miên.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 
Rượu tốt tiêu sầu vị đậm đà, 
Phẳng phiu chiếu trúc dải giường ngà; 
Bầu trời trong vắt, trăng vằng vặc, 
Đẫm mộng xuân bên cửa rợp hoa. 

II 
Tiêu sầu chén rượu đậm đà, 
“Đào Sinh” chiếu trúc, giường ngà phẳng phiu; 
Trăng vằng vặc, trời trong veo, 
Hoa lồng cửa sổ, thiu thiu giấc nồng.


Chú thích: 
Hoan Bá: chén rượu. Theo sách Dịch Lâm, rượu được gọi là hoan bá nghĩa là bác vui, vì nó tiêu trừ nỗi lo, đưa lại niềm vui. 
Chiếu Đào Sinh: theo Từ Hải, ở Tây Xuyên có loại trúc Đào Sinh đốt dài, vỏ mềm, có thể làm chiếu, nên gọi là chiếu Đào Sinh.



Oct 2, 2013

Xuân cảnh

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
春景
楊柳花深鳥語遲
畫堂檐影暮雲飛
客來不問人間事
共倚欄杆看翠微

Dương liễu hoa thâm điểu ngữ trì 
Hoạ đường thiềm ảnh mộ vân phi 
Khách lai bất vấn nhân gian sự 
Cộng ỷ lan can khán thuý vi

Dịch nghĩa: 
Cảnh xuân 
Trong khóm hoa dương liễu rậm, chim hót chậm rãi, 
Dưới bóng thềm ngôi nhà chạm vẽ, mây chiều lướt bay; 
Khách đến chơi không hỏi việc đời, 
Cùng đứng tựa lan can ngắm màu xanh mờ mịt ở chân trời.

Dịch thơ: 
Chim nhẩn nha kêu, liễu trổ đầy, 
Thềm hoa chiều rợp bóng mây bay; 
Khách vào chẳng hỏi chuyện nhân thế, 
Cùng tựa lan can nhìn núi mây. 
                                              Huệ Chi 

II 
Liễu hoa thắm, chim hót thưa, 
Bóng thềm nhà họa, mây qua chiều rồi; 
Khách vào không hỏi chuyện đời, 
Lan can cùng dựa ngắm trời núi xa. 
                                        Đỗ Quang Liên 

Paysage du printemps
Dans les saules pleins de fleurs, les oiseaux gazouillent doucement
Sur le perron du palais, l’ombre des nuages du soir se répand légèrement; 
L’invité arrivé, n’interroge point des affaires humaines, 
S’appuyant ensemble à la balustrade, on contemple les montagnes lointaines
Traduit par Đỗ Quang Liên



Sep 4, 2013

Động Thiên hồ thượng

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗

洞天湖上
洞天湖上景
花草減春容
上帝憐岑寂
太清時一鐘

Động thiên hồ thượng cảnh 
Hoa thảo giảm xuân dung 
Thượng đế liên sầm tịch 
Thái thanh thì nhất chung

Dịch nghĩa: 
Trên hồ Động Thiên 
Quang cảnh hồ Động Thiên, 
Hoa cỏ kém vẻ xuân tươi; 
Thượng đế thương hiu quạnh, 
Thỉnh thoảng điểm một tiếng chuông giữa tầng biếc.

Dịch thơ: 
I
Cảnh hồ Động thiên nọ, 
Hoa cỏ giảm màu xuân; 
Thượng đế thương hiu quạnh, 
Tầng xanh chuông bỗng ngân.
                                     Trần Lê Văn

II 
Động Thiên phong cảnh quanh hồ, 
Cỏ hoa như có giảm màu sắc xuân; 
Ông Xanh thương nỗi quạnh buồn, 
Lâu lâu vẳng một tiếng chuông lưng trời…
                                                          Đỗ Quang Liên 





Sep 3, 2013

Ðề Cổ Châu hương thôn tự

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗

題古州鄉村寺
世數一索莫
時情兩海銀
魔宮渾管甚
佛國不勝春

Thế số nhất sách mạc 
Thời tình lưỡng hải ngân 
Ma cung hồn quản thậm 
Phật quốc bất thăng xuân

Dịch nghĩa: 
Ðề chùa làng hương Cổ Châu 
Số đời hoàn toàn mờ mịt, 
Tình người đổi thay qua đôi mắt; 
Khi cung ma bị quản chặt, 
Thì cõi Phật tràn ngập màu xuân.

Dịch thơ: 
Số đời mờ mịt cả, 
Tình trong đôi mắt trong; 
Cung ma nếu quản chặt, 
Cõi Phật xuân không cùng. 
                          Trần Lê Văn 

II 
Số đời mờ mịt mênh mông, 
Tình người qua cặp mắt trong đổi rời; 
Cung ma quản chặt được rồi, 
Ngập tràn cõi Phật xuân tươi không cùng. 
                                                         Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Tháng Mười năm Mậu Thân (1308), công chúa Thiên Thụy ốm nặng, vua Nhân Tông từ Yên Tử về thăm. Khi trở lại Yên tử, nghỉ đêm tại chùa Cổ Châu, sáng hôm sau, ông đề bài kệ lên vách để ngỏ ý mình. 

- Hải ngân (đôi mắt): Trong thơ của Tô Thức có câu: 
“Đống hợp ngọc lâu hàn khởi lật, 
Quang giao ngân hải huyễn sinh hoa”
Các nhà chú giải giảng rằng: kinh của Đạo Giáo gọi xương vai là Ngọc lâu, mắt là Ngân hải. Ở đây có lẽ chính là ngân hải, nhưng vì vận luật, tác giả phải đổi ngược lại thành Hải ngân chăng?



Aug 31, 2013

Xuân hiểu

Tác giả:  Trần Nhân Tông 陳仁宗

春曉
睡起啟窗扉
不知春已歸
一雙白蝴蝶
拍拍趁花飛

Thụy khởi khải song phi 
Bất tri xuân dĩ quy 
Nhất song bạch hồ điệp 
Phách phách sấn hoa phi

Dịch nghĩa: 
Buổi sớm mùa xuân 
Ngủ dậy mở cánh cửa sổ, 
Không ngờ mùa xuân đã về; 
Một đôi bướm trắng, 
Phần phật cánh, bay đến với hoa.

Dịch thơ: 
Ngủ dậy, mở cửa sổ, 
A, xuân về rồi đây; 
Kìa, một đôi bướm trắng, 
Nhằm hoa, phơi phới bay. 
                           Trần Lê Văn 

II 
Thức rồi, dậy mở cánh song, 
Chẳng hay xuân đã vừa sang lúc nào; 
Một đôi bướm trắng dập dìu, 
Nhởn nhơ vỗ cánh bay vào trong hoa. 
                                                 Đỗ Quang Liên