Showing posts with label Băng Thanh. Show all posts
Showing posts with label Băng Thanh. Show all posts

Feb 3, 2014

Cam lộ tự

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
甘露寺
聳翠攢蒼入望多
溪西影轉簷斜
隔林啼鳥尤岑寂
一徑古松初墜花

Tủng thúy toàn thương nhập vọng đa 
Khê tây nhật ảnh chuyển thiềm tà 
Cách lâm đề điểu vưu sầm tịch 
Nhất kính cổ tùng sơ trụy hoa

Dịch nghĩa:
Chùa Cam Lộ
Màu thúy vời vợi, màu xanh trập trùng tràn ngập trong tầm mắt, 
Bóng mặt trời phía Tây, dòng suối chênh chếch ngả vào mái hiên; 
Chim kêu bên kia rừng càng thêm hiu quạnh, 
Một ngõ thông già lác đác rụng hoa.

Dịch thơ: 
Chất ngất màu xanh mây núi xa, 
Mặt trời bên suối chếch hiên nhà; 
Cách rừng chim gọi thêm hiu quạnh, 
Một ngõ thông già rơi rắc hoa. 
                                         Băng Thanh 

II 
Ngút tầm xanh thắm nhấp nhô, 
Khe Tây chếch bóng mái chùa tà dương, 
Tiếng chim thêm quạnh mé rừng, 
Lối mòn thông cỗi, hoa vương ít nhiều. 
                                                        Đỗ Quang Liên 


Chú thích: Chùa Cam Lộ ở huyện Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh ngày nay.




Jan 28, 2014

Hạnh ngộ

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
幸遇
平生曾蓄一張琴
埋沒塵埃歲月深
幸遇伯牙高妙手
更教山水嗣徽音

Bình sinh tằng súc nhất trương cầm
Mai một trần ai tuế nguyệt thâm
Hạnh ngộ bá nha cao diệu thủ
Cánh giao sơn thuỷ tự huy âm

Dịch nghĩa: 
May gặp 
Đời ta từng có một cây đàn, 
Chôn vùi đã lâu ngày trong bụi trần; 
May gặp được tay cao diệu của Bá Nha,
Lại khiến cho tiếng đàn nối được lời nước non.

Dịch thơ: 
Đời ta từng sẵn một cây cầm, 
Cát bụi chôn vùi bao tháng năm; 
May gặp Bá Nha sành khúc điệu, 
Nối lời non nước tạ tri âm. 
                              Băng Thanh

II  
Nơi ta từng có cây cầm, 
Bụi trần phủ lấp tháng năm nhạt nhòa; 
Tay cầm may gặp Bá Nha, 
Nước non lại nối điệu ca thuở nào… 
                                                  Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Bài này vua Trần Minh Tông đọc cho sư Phổ Tuệ nghe, tỏ bày lòng mộ Phật bấy lâu mà chưa gặp được bậc cao tăng. Phổ Tuệ tức Pháp Loa, vị tổ thứ 2 phái Trúc Lâm. 
- Bá Nha, người đánh đàn hay. Chung Tử Kỳ, người thời Chiến Quốc, rất sành âm luật, là bạn tri kỷ của Bá Nha. Nghe Bá Nha đánh đàn, ông biết trong lòng Bá Nha đang nghĩ đến non cao hay nước chảy. Sau khi Tử Kỳ chết, Bá Nha bỏ đàn không gảy nữa, cho là không còn ai là tri kỷ, tri âm.



Nov 21, 2013

Mai hoa

Tác giả: Huyền Quang 玄光
梅花
欲向蒼蒼問所從
凜然孤峙雪山中
折來不爲遮青眼
願借春思慰病翁

Dục hướng thương thương vấn sở tòng 
Lẫm nhiên cô trĩ tuyết sơn trung 
Chiết lai bất vị già thanh nhãn 
Nguyện tá xuân tư ủy bệnh ông

Dịch nghĩa:
Hoa mai 
Muốn ngẩng nhìn trời xanh hỏi hoa mai từ đâu tới, 
Lẫm liệt đứng sừng sững một mình trong núi tuyết; 
Bẻ về không phải để che mắt những người tinh đời, 
Chỉ muốn mượn tứ xuân an ủi ông già ốm yếu.

Dịch thơ: 
Muốn hỏi trời xanh: hoa tự đâu? 
Một mình gội tuyết chốn non sâu; 
Bẻ về, đâu muốn lừa tri kỷ, 
Chỉ mượn tinh hoa giải bệnh sầu. 
                                            Băng Thanh 

II 
Hỏi trời: đến tự nơi nao? 
Một mình trụ giữa núi cao tuyết dày; 
Chẳng vì che mắt xanh ai, 
Bẻ về an ủi tình người ốm đau. 
                                  Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
Người tinh đời: Nguyễn Tịch đời Tấn (Trung Quốc) thấy bọn dung tục thì nhìn bằng con mắt trắng, riêng Kê Khang ông nhìn bằng mắt xanh. Về sau “người mắt xanh” là người tinh đời. 
Trong câu này có lẽ tác giả muốn nói: thưởng thức hoa mai không phải để khiến những người mắt xanh tưởng mình thanh cao, mà chỉ để an ủi tấm thân ốm yếu



Nov 7, 2013

Nhập tục luyến thanh sơn

Tác giả: Đồng Kiên Cương (Pháp Loa thiền sư, 1284-1330) 同堅剛
入俗戀青山
山瘦窮秋水
礹落照中 
昂頭看不盡
來路又重重

Sơn sấu cùng thu thuỷ 
Sàm nham lạc chiếu trung 
Ngang đầu khan bất tận 
Lai lộ hựu trùng trùng

Dịch nghĩa: 
Vào cõi tục tiếc non xanh 
Rặng núi gầy mảnh in bóng xuống đáy nước mùa thu, 
Đỉnh núi chót vót dưới ánh mặt trời; 
Ngẩng đầu lên nhìn thấy không cùng, 
Con đường đi tới lại càng lắm ngả?

Dịch thơ: 
I
Dòng thu in bóng núi, 
Chót vót dưới chiều tà; 
Ngước mắt nhìn vời vợi, 
Đường vào chập trùng xa. 
Băng Thanh 

II 
Nước thu in bóng núi gày, 
Non cao nhòa giữa nắng ngày mông lung; 
Ngẩng đầu nhìn thấy không cùng, 
Con đường đang tới chập trùng lối đi. 
                                                Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Kiên Cương người hương Cửu La, huyện Chí Linh, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang. Năm 1304, được vua Trần Nhân Tông thu nhận và đặt tên là Thiện Lai, đến năm 1308 được đổi là Pháp Loa, trở thành tổ thứ hai dòng Thiền Trúc Lâm. Ông khai sáng nhiều danh thắng như viện Quỳnh Lâm, chùa Thanh Mai,… Ông được mời giảng các Kinh Hoa Nghiêm, Viên Giác, Tuyết đậu ngữ lục, Đại Tuệ ngữ lục, Thượng Sỹ ngữ lục (của Trần Tung), Thiền Âm thiết chủy ngữ lục (của Trần Nhân Tông). Vua Trần Anh Tông tặng ông tên Phổ Tuệ tôn giả và tự xưng đệ tử. Ông còn san dịch, biên tập, in aán nhiều kinh sách như Thạch Thất vọng ngữ (của Trần Nhân Tông), viết chú sớ cho nhiều bộ kinh như Kinh Kim Cương trường Đà La Ni khoa chú, Niết Bàn đại kinh khoa sớ. Soạn sách hướng dẫn tu hành như Phật sự khoa văn, Độ môn trợ thành tập.



Oct 14, 2013

Vũ Lâm thu vãn

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
武林秋晚
畫橋倒影蘸溪橫
一抹斜陽水外明
寂寂千山紅葉落
湿雲如梦逺鐘聲

Hoạ kiều đảo ảnh trám khê hoành 
Nhất mạt tà dương thuỷ ngoại minh 
Tịch tịch thiên sơn hồng diệp lạc 
Thấp vân như mộng viễn chung thanh

Dịch nghĩa: 
Chiều thu ở Vũ Lâm 
Chiếc cầu chạm vẽ đảo bóng vắt ngang dòng suối, 
Một vệt nắng chiều rực sáng bên ngoài ngấn nước; 
Nghìn núi lặng tờ, lá đỏ rơi, 
Mây ướt giăng như mộng, tiếng chuông xa vẳng.

Dịch thơ: 
Lòng khe in ngược bóng cầu hoa, 
Hắt sáng bờ khe, vệt nắng tà;
Lặng lẽ nghìn non rơi lá đỏ, 
Mây giăng như mộng, tiếng chuông xa. 
                                                    Băng Thanh 

II 
Bóng cầu dòng suối vắt ngang, 
Ánh chiều một vệt ngoài làn nước trong; 
Ngàn non tĩnh – lá rụng hồng, 
Mây vờn như mộng, xa buông chuông chùa. 
                                                            Đỗ Quang Liên

Soir d’automne à Vũ Lâm 
L’image renverseé du pont enjambant les bords du ruisseau, 
Une trâineé solaire du soir éclaire au dehors de l’eau; 
Les mille monts silencieux sont doreés de feuilles tombées, 
Les humides nuages sont comme en rêve une cloche tinte éloigneé. 
Traduit par Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Vũ Lâm: Việt âm thi tập chú là tên động. Theo Đại Việt sử ký toàn thư thì động này ở xã Vũ Lâm, nay thuộc huyện Yên Khánh, tỉnh Ninh Bình. 
Câu cuối có sách ghi: Thấp vân hòa mộng (hoặc Lộ ) tống chung thanh (湿雲和梦送鐘聲)


Jun 26, 2013

Chí tâm hồi hướng



Tác giả Trần Cảnh 陳煚 
志心迴向
我等回心歸聖眾
慇懃頭地禮慈尊
願將功德及群生
憑此勝因成正覺

Ngã đẳng hồi tâm quy thánh chúng 
Ân cần đầu địa lễ từ tôn 
Nguyện tương công đức cập quần sinh 
Bằng thử thắng nhân thành chính giác

Dịch nghĩa: 
Dốc lòng hồi hướng 
Chúng tôi hồi tâm quay về với các thánh, 
Rập đầu khẩn khoản kính lễ đức Từ Tôn; 
Mong đem công đức đến với chúng sinh, 
Nhờ nhân tốt này mà trở thánh Chính giác.

Dịch thơ: 
Chúng tôi dốc chí theo chư Phật, 
Kính lễ Từ Tôn hết tấc thành; 
Công đức muôn loài nguyền tưới khắp, 
Tu nên Chính Giác dựa nhân lành. 
                            Đỗ Văn Hỷ - Băng Thanh 

II 
Quay về chư Phật – dốc lòng, 
Rập đầu cầu khấn Từ Tôn độ trì; 
Đem công đức đến muôn loài, 
Tu nên chính giác, dựa nay nhân lành. 
                                                      Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Từ Tôn: Từ bi, cao cả, tức là Phật. 
Chính giác: sự giác ngộ hoàn toàn, hiểu hết được tất cả, do vậy, Chính Giác cũng là một hiệu của Phật Thích Ca, cũng gọi là Chính Biến Giác, nguyên tiếng Phạn.


Jun 25, 2013

Chí tâm tùy hỷ



Tác giả Trần Cảnh 陳煚 
心隨喜
我今隨佛生歡喜
昏曉虔誠懴因
十地階棲願早登
菩提眞心無退轉

Ngã kim tùy Phật sinh hoan hỉ 
Hôn hiểu kiền thành lễ sám nhân 
Thập địa giai thê nguyện tảo đăng 
Bồ đề chân tâm vô thoái chuyển

Dịch nghĩa: 
Dốc lòng tùy hỷ 
Ta nay theo Phật sinh lòng vui mừng, 
Sớm hôm thành kính sám hối nguyên nhân của lỗi lầm; 
Mong sớm được lên thang Thập địa, 
Không xa rời chân tâm Bồ đề.

Dịch thơ: 
I
Ta nay theo Phật lòng hoan hỷ, 
Thành kính hôm mai sửa lỗi lầm; 
Mong sớm được lên thang Thập địa, 
Dốc lòng gìn giữ lấy chân tâm. 
                                            Băng Thanh 

II 
Từ nay theo Phật, lòng mừng, 
Sớm hôm sám hối lỗi lầm căn nguyên; 
Thang Thập địa sớm được lên, 
Dốc lòng gìn giữ chân tâm Bồ đề. 
                                                    Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Thập địa có hai cách định nghĩa: 
Theo Trí độ luận là: căn tuệ, tịnh địa, bất nhẫn, kiến địa, bạc địa, ly dục, dĩ biện, chi Phật, Bồ tát, Phật địa. Theo Kinh hoa nghiêm là: hoan hỷ, ly cấu, phát quang, diệm tuệ, cực nan thắng, hiện tiền, viễn hành, bất động, phổ tuệ, pháp vân.
Tượng trưng cho những nơi tốt đẹp của đất Phật.

Jun 22, 2013

Hiến hoa kệ



Tác giả Trần Cảnh 陳煚
献花偈
心地開時誇爛熳
諸天雨處讓芬芳
枝枝朵朵向佛前
億刧業風吹不落


Tâm địa khai thời khoa lạn mạn
Chư thiên vũ xứ nhượng phân phương
Chi chi đóa đóa hướng Phật tiền
Ức kiếp nghiệp phong xuy bất lạc

Dịch nghĩa: 
Kệ dâng hoa 
Đất tâm rộng mở, màu sắc tươi rực rỡ, 
Mọi nơi được tưới mưa trời đều phải nhường hương thơm ngào ngạt; 
Cành cành, đóa đóa đem dâng trước Phật, 
Gió nghiệp muôn kiếp thổi cũng không rụng.

Dịch thơ: 
Đất tâm hoa nở sắc khoe tươi, 
Thơm ngát ngàn hoa khắp cõi trời; 
Muôn đóa đem dâng trên điện Phật, 
Nghìn thu gió nghiệp chẳng làm rơi. 
Băng Thanh 

II 
Hoa lòng rực rỡ màu tươi, 
Mưa nhuần cũng nhượng một trời ngát hương; 
Từng cành, từng đóa hiến dâng, 
Muôn kiếp gió nghiệp dù rung chẳng rời. 
                                                        Đỗ Quang Liên
 

Chú thích: 
Gió nghiệp: nghiệp đây là ác nghiệp. Tác giả ví ác nghiệp như gió thổi khắp nơi và không ngừng.

Jun 15, 2013

Hiến hương kệ



Tác giả Trần Cảnh 陳煚
献香偈
禪林香馥郁
旃檀慧苑舊栽培
戒刀削就聳山形
熱向心爐長供養

Trầm thủy thiền lâm hương phúc úc 
Chiên đàn tuệ uyển cựu tài bối 
Giới đao tước tựu tủng sơn hình 
Nhiệt hướng tâm lô trường cung dưỡng

Dịch nghĩa: 
Kệ dâng hương 
Hương trầm thủy ngạt ngào ở rừng Thiền, 
Hương chiên đàn vun trồng đã lâu ở vườn tuệ; 
Dao giới vót thành hình núi cao chót vót, 
Đốt lò hương lòng xin mãi mãi cúng dàng.

Dịch thơ: 
I
Trầm thủy, rừng thiền hương sực nức, 
Chiên đàn, vườn tuệ, đã vun trồng; 
Dao từ bi vót hình non thẳm, 
Nguyện đốt lò tâm mãi cúng dàng. 
                                                Băng Thanh 

II
Rừng Thiền hương tỏa ngát thơm, 
Vườn tuệ hương đã vun trồng từ lâu; 
Dao từ tựa đỉnh núi cao, 
Hương lòng nồng cháy cúi đầu kính dâng. 
                                                      Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Chiên đàn: tên một loại gỗ thơm, phiên âm tiếng Phạn là Chiên đàn na. Theo “Tây dương tạp trở” thì loại cây này có bốn thứ hương, rễ là hương chiên đàn; Đốt là hương trầm; Hoa là hương kê thiệt; Nhựa là hương huân lục. 
Theo “Bản thảo cương mục” của Lý Thời Trân thì nói hương này có 3 loại là: bạch đàn, hoàng đàn và tử đàn.
Trầm thủy cũng là một loại chiên đàn quý.