Sep 15, 2015

Hiểu lũng quán phu



Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

曉隴灌夫
霚裡雙槔迅手牽
腹枵唇戰短蓑穿
百尋破草長堤陌
五尺新秧上畔田

Vụ lý song cao tấn thủ khiên
Phúc hiêu thần chiến đoản thoa xuyên
Bách tầm phá thảo trường đê mạch
Ngũ xích tân ương thượng bạn điền

Dịch nghĩa: Người tát nước đồng cao buổi sáng 

Trong sương mù tay lôi chiếc gầu đôi thoăn thoắt,
Bụng đói, môi run, khoác chiếc áo tơi ngắn;
Cạnh đê dài, hàng trăm tầm cỏ vừa phá hoang,
Mảnh ruộng bờ trên có năm thước mạ vừa gieo.

Dịch thơ:

Đôi gầu thoăn thoắt trong sương giá,
Tơi ngắn, môi run, bụng đói meo;
Đê dài, cỏ dại trăm tầm rẫy,
Năm thước đồng cao mạ mới gieo. 
                                   Đỗ Quang Liên
 
II 
Gầu dây, sương lạnh, tay lôi,
Môi run, bụng đói mảnh tơi khoác ngoài;
Đất vỡ cỏ, lối đê dài,
Mạ non mới quải ước vài ba vuông.
                                                  Ngô văn Phú





Chú thích: 
- Chiếc gầu đôi không rõ, nếu tát đôi gầu dây thì cần 4 người, 2 người kéo chung một chiếc gầu. 
- Tầm: Đơn vị đo chiều dài ngày xưa, một tầm bằng 8 thước. Thước bằng 0.40 mét.






Sep 14, 2015

Hạ liêu thành ngoại tức sự



Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

下寮成外即事
馬鞍峰下見林峦
指顧寮城瞬息間
風力一帆三日夜
萬重波浪萬重山

Mã yên phong hạ kiến lâm loan 
Chỉ cố liêu thành thuấn tức gian 
Phong lực nhất phàm tam nhật dạ 
Vạn trùng ba lãn vạn trùng san

Dịch nghĩa: Làm ngay trước cảnh lúc đến ngoài Liêu Thành 

Dưới đỉnh núi Mã Yên nhìn thấy núi rừng quanh co liền dải, 
Chỉ tay ngắm nhìn Liêu Thành trong khoảng chớp mắt; 
Một cánh buồm chạy nhờ sức gió suốt ba ngày đêm, 
Muôn trùng sóng nước, muôn trùng núi non.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Dưới đỉnh Mã Yên núi với rừng,
Liêu Thành một thoáng mắt vời trông;
Ba ngày đêm trọn, buồm no gió,
Sóng nước núi non vượt vạn trùng. 

II 
Mã Yên liền núi với rừng,
Liêu Thành tay chỉ thoáng trong mắt nhìn;
Buồm căng gió ba ngày đêm,
Muôn trùng sóng nước muôn trùng núi non.





Chú thích:
Liêu Thành: Địa danh thành Riau ở Singapore





Sep 11, 2015

610. Hạ châu tạp ký kỳ thập



Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

下賀洲雜記其十
蠻歌聒耳幾回聞
獨倚危欄酒半醺
日喫會幾三百盞
不防喚作小参軍

Man ca quát nhĩ kỷ hồi văn
Độc ỷ nguy lan tửu bán huân
Nhất khiết cối cơ tam bách trản
Bất phòng hoán tác tiểu tham quân

Dịch nghĩa: Tạp ký đi Hạ Châu (Bài 10) 

Giọng hát người mọi ầm tai mấy hồi,
Một mình dựa lan can cao, rượu say ngà ngà;
Ngày có thể uống đến ba trăm chén,
Không nghĩ phải gọi làm nhiệm vụ viên tham quân nhỏ.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Xì xồ hát hỏng cứ inh tai, 
Ra đứng lan can, rượu dở say; 
Ngày uống ba trăm chung vẫn ít, 
Tiểu tham quân gọi sẵn sàng ngay. 

II 
Xì xồ hát hỏng inh tai, 
Dựa lan can đứng rượu say ngà ngà; 
Uống ngày uống ba trăm chén dư, 
Tiểu tham quân gọi vẫn thừa đảm đương.




Chú thích: 
Tiểu tham quân: Tiếng lóng chỉ những viên quan phải xung quân “hiệu lực”.





Sep 10, 2015

Hạ châu tạp ký kỳ cửu



Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

下賀洲雜記其九
禿髮班巾三五兒
聚頭讚講曼聲遲
日斜自向西天拜
直到烏輪影盡時

Thốc phát ban cân tam ngũ nhi 
Tụ đầu tán giảng mạn thanh trì 
Nhật tà tự hướng tây thiên bái 
Trực đáo ô luân ảnh tận thì

Dịch nghĩa: Tạp ký đi Hạ Châu (Bài 9) 

Năm ba gã trai trẻ tóc ngắn đội khăn rằn,
Chụm đầu rầm rì đọc những lời rao giảng;
Lúc mặt trời xế, quay lại phía trời Tây,
Mãi đến khi hết bóng bánh xe qua.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Dăm anh trai tóc đội khăn rằn, 
Chụm lại lầm rầm giọng muốn lên; 
Trời xế, hướng phương Tây bái lậy, 
Mãi khi vầng nhật gặp đêm đen.

II 
Dăm anh trai tóc, khăn rằn, 
Chụm đầu khấn nguyện xuống lên giọng cầu; 
Trời Tây chiều xế cúi đầu, 
Lạy van đến tận ngày hầu sang đêm.





Chú thích: 
- Thốc phát: trụi tóc, có lẽ đây là tín đồ Hồi giáo chứ không phải Phật giáo, nghĩ là cách mô tả có pha ác của người búi tóc, nói về người cắt tóc ngắn. 
- Bánh xe quạ: Chỉ mặt trời tròn như bánh xe, lại di chuyển, và truyền thuyết cho rằng bên trong có quạ vàng (Kim ô).





Sep 9, 2015

Hạ châu tạp ký kỳ bát



Tác giả: Cao Bá Quát 高伯适

下賀洲雜記其八
火華謾說是神僊
肯向牟尼講業緣
梵劫欲灰君着取
修羅新據一乘禪

Hỏa hoa mạn tuyết thị thần tiên
Khẳng hướng mâu ni giảng nghiệp duyên
Phạm kiếp dục hồi quân khán thủ
Tu la thân cứ nhất thừa thiền

Dịch nghĩa: Tạp ký đi Hạ Châu (Bài 8)

Tia lửa điện đồn đại chuyện thật thần tiên,
Xin nói về nghiệp duyên với đức Mâu Ni;
Kiếp Phật muốn tàn rồi, ngài cứ xem lấy thì rõ,
Thêm một dòng tu thiền mới để theo là A Tu La.

Dịch thơ: Đỗ Quang Liên 

Tiếng đồn tựa điện thật thần tiên, 
Nghe đức Mâu Ni giảng nghiệp duyên; 
Kiếp Phật sắp tàn ngài thấy đấy, 
Tu La thêm mới một dòng thiền. 

II 
Tiếng đồn điện quả phép tiên, 
Nghe Mâu Ni giảng nghiệp duyên bao đời; 
Sắp tàn kiếp Phật hãy coi,
Tu La dòng mới chính nơi cửa thiền.





Chú thích: 
- Nghiệp duyên: Từ nhà Phật, chỉ cái nhân gây trước đưa đến cái quả sau này.
- Mâu Ni: Gọi tắt Phật tổ Thích Ca Mâu Ni. 
- Kiếp Phật: Theo thuyết Phật, vòng luân hồi của chúng sinh kết thúc bằng việc người tốt được độ lên niết bàn, kẻ xấu bị tuyệt diệt thành tro tàn màu đen (Kiếp hồi). 
- A Tu La: Gọi tắt là Tu La, theo Phật giáo, sau khi chết con người được chuyển đến 1 trong 6 cõi (Xếp giá trị từ cao đến thâp: 1, Trời; 2, Người; 3, A Tu La; 4, Ngạ Quỷ; 5, Súc sinh; 6, Địa ngục). Tác giả quan niệm nền văn minh kỹ thuật sẽ đưa con người xuống 1 cấp gần với quỷ.