Showing posts with label Ngô Tất Tố. Show all posts
Showing posts with label Ngô Tất Tố. Show all posts

Oct 12, 2013

Đề Phổ Minh tự thủy tạ

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
題普明寺水榭
薰盡千頭滿座香
水流初起不多涼
老榕影裡僧關閉
第一蟬聲秋思長

Huân tận thiên đầu mạn toạ hương
Thuỷ lưu sơ khởi bất đa lương 
Lão dung ảnh lý tăng quan bế 
Đệ nhất thiền thanh thu tứ trường

Dịch nghĩa:
Đề nhà thuỷ tạ chùa Phổ Minh 
Xông hết nghìn nén hương, khắp nhà thuỷ tạ thơm ngào ngạt, 
Dòng nước mới dâng không lạnh lắm; 
Dưới bóng đa già, cổng chùa đóng im ỉm, 
Một tiếng ve đầu tiên, tứ thu man mác.

Dịch thơ: 
I
Nghìn hương thắp hết ngát đầy nhà, 
Làn nước hiu hiu gió lạnh qua; 
Dưới bóng đa già chùa vắng vẻ, 
Tiếng ve khơi động tứ thu xa. 
                                        Ngô Tất Tố

II 
Hương thơm ngào ngạt khắp nhà, 
Mát chưa nhiều mấy, nước vừa mới lên; 
Bóng đa rợp kín cửa thiền, 
Tứ thu dậy, tiếng ve ngân sớm ngày. 
                                                   Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Chùa Phổ Minh: Việt âm thi tập chú: Trần Thái Tông về chơi hương Tức mặc, xây dựng cung Trùng Hoa, lại xây ở phía Tây cung một ngôi chùa, gọi tên là Phổ Minh. Ngôi chùa này thành nơi du ngoạn, nghỉ ngơi, của các vua Trần. 
Thời Trần, Tức Mặc thuộc phủ Thiên Trường. Hiện nay, tại làng Tức Mặc, thuộc huyện Mỹ Lộc, Nam Định, còn chùa và tháp Phổ Minh.





Oct 10, 2013

Thiên Trường vãn vọng

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
天長晚望
村後村前淡似煙
半無半有夕陽邊
牧童笛裡歸牛盡
白鷺雙雙飛下田

Thôn hậu thôn tiền đạm tự yên
Bán vô bán hữu tịch dương biên
Mục đồng địch lý quy ngưu tận
Bạch lộ song song phi hạ điền

Dịch nghĩa: 
Ngắm cảnh chiều ở Thiên Trường 
Trước thôn, sau thôn, đều mờ mờ như khói phủ, 
Bên bóng chiều, cảnh vật nửa như có, nửa như không; 
Trong tiếng sáo, mục đồng lùa trâu về hết, 
Từng đôi cò trắng hạ cánh xuống đồng.

Dịch thơ:
Trước xóm, sau thôn tựa khói lồng, 
Bóng chiều dường có, lại dường không; 
Mục đồng, sáo vẳng, trâu về hết, 
Cò trắng từng đôi liệng xuống đồng. 
                                               Ngô Tất Tố 
II 
Trước, sau thôn tựa khói mờ, 
Nửa không, nửa có, mơ mơ ánh chiều; 
Trâu theo sáo trẻ bước đều, 
Đàn cò bay lượn rủ nhau xuống đồng. 
                                                 Đỗ Quang Liên 





Oct 5, 2013

140. Xuân vãn

Tác giả: Trần Nhân Tông 陳仁宗
春晚
年少何曾了色空
一春心在百花中
如今勘破東皇面
禪板蒲團看墜紅

Niên thiếu hà tằng liễu sắc không 
Nhất xuân tâm tại bách hoa trung 
Như kim khám phá đông hoàng diện 
Thiền bản bồ đoàn khán truỵ hồng

Dịch nghĩa: 
Chiều xuân 
Thuở trẻ chưa từng hiểu rõ "sắc" với "không", 
Mỗi khi xuân đến vẫn gửi lòng trong trăm hoa; 
Ngày nay đã khám phá được bộ mặt Chúa Xuân, 
Ngồi trên nệm cỏ giữa tấm phản nhà chùa ngắm cánh hoa rụng.

Dịch thơ: 
Tuổi trẻ chưa tường lẽ Sắc, Không, 
Xuân sang, hoa nở, rộn tơ lòng; 
Chúa Xuân nay đã thành quen mặt, 
Nệm cỏ ngồi yên, ngó rụng hồng. 
                                            Ngô Tất Tố 

II 
Thời trai chưa thấu Sắc, Không, 
Tuổi xanh phơi phới gửi lòng trăm hoa; 
Chúa Xuân, giờ đã biết ra, 
Ngồi thiền nệm cỏ nhìn hoa rụng hồng!
Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Chúa Xuân: Đông Hoàng tức Đông Quân là thần mùa Xuân. Bài Lập xuân hậu thi của Vương Sơ có câu: 
“Đông Quân kha bội hưởng san san 
Thanh ngự đa thì há cửu quan”
nghĩa là: Chúa Xuân đeo ngọc kêu lanh canh, Cưỡi ngựa xanh nhiều lúc đi xuống chín cửa quan. 
- Bồ đoàn: là tấm nệm bằng cỏ, hình tròn, các nhà sư thường dùng trong lúc ngồi thiền định hay lễ bái. Việt âm thi tập chú: 
"Thiền gia chi thiền bản bồ đoàn tức Nhân gia mộc bản bồ tịch dã", 
nghĩa là: Thiền bản bồ đoàn, thuật ngữ nhà Thiền, là loại chiếu bằng cỏ Bồ, cũng là chiếu cói của nhà dân.


May 7, 2013

Thị Thái uý Tô Hiến Thành, Thái bảo Ngô Hòa Nghĩa

Tác giả: Lê Thước (Trí Thiền) 黎鑠智


示太尉蘇憲誠太保吳和義
旣懷出素養胸中
聞說微言意允從
貪慾黜除千里外
希夷之理日包容

Ký hoài xuất tố dưỡng hung trung 
Văn thuyết vi ngôn ý doãn tòng 
Tham dục truất trừ thiên lý ngoại 
Hy di chi lý nhật bao dung

Dịch nghĩa: 

Bảo thái uý Tô Hiến Thành và thái bảo Ngô Hoà Nghĩa 
Đã ấp ủ trong lòng ý muốn thoát ra ngoài cõi tục, 
Nên khi nghe lời huyền diệu là chân thành tin theo; 
Hãy trừ bỏ và đuổi sự tham muốn ra ngoài ngàn dặm, 
Hàng ngày chất chứa trong lòng cái lẽ nhiệm mầu.

Dịch thơ: 


I
Như muốn lìa xa cõi bụi hồng, 
Vẳng nghe lời diệu, hãy vui lòng; 
Đuổi ngoài nghìn dặm niềm tham muốn, 
Để lẽ huyền vi chứa ở trong. 
                                                    Ngô Tất Tố

II

Tin nghe theo lẽ diệu huyền, 
Bởi lòng đã quyết lánh miền trần ai; 
Ý tham gạt bỏ dặm ngoài, 
Nhiệm màu lẽ ấy, ngày ngày chắt chiu. 
                                                         Phạm Tú Châu 
 

Chú thích:
Lê Thước người Châu Phong, giữ chức Cung hậu thư gia. Cả nhà đều làm quan to triều Lý. Ông theo học sư Giới Không, tu ở núi Từ Sơn, đứng đầu thế hệ 16, dòng thiền Nam Phương. 
Hai vị Thái Úy, Thái Bảo từng xem mình là học trò của ông. 
Hy di: chỉ cái “tâm” bản thể rất vi diệu.


Apr 27, 2013

35. Văn chung

Tác giả Hoàng Viên Học 黃圓學


聞鐘
六識常昏終夜苦
無明被覆久迷慵
晝夜聞鐘開覺悟
懶神靜刹得神通


Lục thức thường hôn chung dạ khổ
Vô minh bị phú cửu mê dung
Trú dạ văn chung khai giác ngộ
Lãn thần tịnh sát đắc thần thông.

Dịch nghĩa: 
Nghe tiếng chuông 
Lục thức thường mờ tối, khổ sở thâu đêm, 
Vì bị vô minh che lấp mà lâu nay mê lầm biếng nhác; 
Đêm ngày nghe tiếng chuông, bừng tỉnh ngộ,
Thần lười rũ sạch, tinh thần được thông suốt.

Dịch thơ: 
Sáu căn ám ảnh khổ đêm dài, 
Tăm tối sinh ra biếng nhác hoài; 
Hôm sớm nghe chuông, hồn tỉnh thức, 
Thần thông gặp được, hết thần lười. 
                                                  Ngô Tất Tố 

II 
Sáu căn ám ảnh đêm dài, 
Tối tăm che lấp mắc hoài si mê; 
Sớm hôm chuông gọi hồn về, 
Tinh thần thông suốt, rũ đi thần lười. 
                                                        Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Viên Học người Như Nguyệt, tu ở chùa Đại An, huyện Tế Giang. Ông theo dòng thiền Nam Phương, cùng thế hệ với nữ sĩ Lý Ngọc Kiều. 
Lục thức: chỉ 6 cảm giác do 6 căn sinh ra. Thấy ở mắt, nghe ở tai, ngửi ở mũi, nếm ở lưỡi, cảm xúc của thân thể, hiểu biết của ý thức. 
Vô Minh: tên gọi khác của Si, chỉ tâm mờ tối, khâu đầu của Nhị thập nhân duyên.

Apr 26, 2013

Hoa điệp

Tác giả Nguyễn Giác Hải 阮覺海


花蝶 
春來花蝶善知時
花蝶應須共應期
花蝶本來皆是幻
莫須花蝶向心持

Xuân lai hoa điệp thiện tri thì
Hoa điệp ưng tu cộng ứng kỳ
Hoa điệp bản lai giai thị huyễn
Mạc tu hoa điệp hướng tâm trì

Dịch nghĩa: 
Hoa và bướm 
Xuân sang hoa và bướm khéo quen với thời tiết,
Hoa bướm đều cần phải thích ứng với kỳ hạn của chúng.
Như hoa với bướm vốn dĩ đều là hư ảo,
Chớ nên bận tâm về hoa với bướm.

Dịch thơ: 
Xuân sang hoa bướm khéo quen thì,
Bướm lượn hoa cười vẫn đúng kỳ;
Nên biết bướm hoa đều huyễn ảo,
Thây hoa, mặc bướm để lòng chi.
                                              Ngô Tất Tố 

II
Xuân sang hoa bướm quen thì, 
Hoa cười, bướm lượn đúng kỳ tự nhiên; 
Bướm hoa đều ảo, đừng quên, 
Mặc hoa, kệ bướm giữ yên lòng này. 
                                                       Đỗ Quang Liên 

Apr 16, 2013

Thị tịch cáo đại chúng

Tác giả: Từ Lộ Đạo Hạnh (?-1177) 徐路道行


示寂告大眾
秋來不報雁來歸
冷笑人間發悲
為報門人休戀著
古師幾度作今師

Thu lai bất báo nhạn lai quy 
Lãnh tiếu nhân gian động phát bi 
Vị báo môn nhân hưu luyến trước 
Cổ sư kỉ độ tác kim sư.

Dịch nghĩa: 
Sắp mất bảo mọi người 
Mùa thu về không báo tin cho chim nhạn cùng về, 
Đáng cười người đời cứ nảy sinh buồn thương trước cái chết.
Khuyên các môn đồ chớ có vì ta mà quyến luyến,
Thầy xưa đã bao nhiêu lần hoá thân làm thầy nay.

Dịch thơ: 
I
Thu về chẳng báo nhạn theo bay, 
Cười nhạt người đời uổng xót vay;
Thôi hỡi môn đồ đừng quyến luyến,
Thày xưa mấy lượt hóa thày nay.
                                       Ngô Tất Tố

II
Thu về chẳng báo nhạn theo,
Đáng cười người thế nảy nhiều thương bi;
Môn đồ quyến luyến mà chi,
Thày xưa bao lượt hóa là thày nay.
                                                       Đỗ Quang Liên

Dịch ra chữ Pháp:
Avis de décès imminent 
L’automne revient sans prévenir les hirondelles qui retournent, 
C’est risible à ce monde qui s’attriste à un décès;
Dites à mes disciples de ne pas s’attrister,
Bien des fois les mâitres d’antan s’incarnent dans ceux actuels.
                                                                             Traduit par Đỗ Quang Liên 


Apr 9, 2013

20. Đáp Từ Đạo Hạnh chân tâm chi vấn

Tác giả: Kiều Trí Huyền 喬智玄禪師

答徐道行真心之問
玉裏秘聲演妙音
個中滿目露禪心
河沙境是菩提道
擬向菩提隔萬尋

Ngọc lý bí thanh diễn diệu âm 
Cá trung mãn mục lộ thiền tâm 
Hà sa cảnh thị bồ đề đạo 
Nghĩ hướng bồ đề cách vạn tầm

Dịch nghĩa: 
Trả lời Từ Đạo Hạnh hỏi về chân tâm 
Những thanh huyền bí trong mình ngọc của Phật tạo thành những âm thanh kỳ diệu, 
Ở đó có lòng Thiền lộ ra tràn đầy con mắt; 
Khắp những thế giới, nhiều như cát sông Hằng, chỗ nào cũng là Phật, 
Thế mà lại tưởng rằng muốn đến cõi Phật còn phải mất hàng vạn tầm.

Dịch thơ: 
Mình ngọc vang đưa đến ảo huyền, 
Ở trong vẫn lộ tấm lòng Thiền; 
Cát sông là cõi Bồ Đề đó, 
Mà tưởng còn xa mấy dặm nghìn! 
                                             Ngô Tất Tố 

II 
Rộn ràng mình ngọc, âm huyền diệu, 
Phơi rõ lòng Thiền, ngập mắt trông; 
Khắp cõi hà sa đâu cũng Phật, 
Mà như tới Phật cách muôn trùng. 
                                                  Huệ Chi 

III 
Mình ngọc vang tiếng diệu huyền, 
Phơi bày ngập mắt, lòng Thiền ở trong; 
Phật đầy như cát sông Hằng, 
Mà ngỡ tới Phật phải băng vạn tầm. 
                                                       Đỗ Quang Liên




Chú thích: 

Trí Huyền từng mở trường dạy học ở hương Thái Bình (thuộc lộ Hải Đông thời Lý, đời Trần là huyện Thái Bình, phủ Tân Hưng, nay thuộc tỉnh Thái Bình). 

Tầm: đơn vị đo chiều dài, bằng 8 thước Trung Quốc.



Mar 31, 2013

15. Cáo tật thị chúng

Tác giả: Lý Trường (Mãn Giác 1052-1096) 李長 滿覺 
吿疾示眾
春去百花落
春到百花開
事逐眼前過
老從頭上來
莫謂春殘花落盡
庭前昨夜一枝梅

Xuân khứ bách hoa lạc
Xuân đáo bách hoa khai
Sự trục nhãn tiền quá
Lão tùng đầu thượng lai
Mạc vị xuân tàn hoa lạc tận
Đình tiền tạc dạ nhất chi mai


Dịch nghĩa: 
Có bệnh bảo mọi người
Xuân đi, trăm hoa rụng, 
Xuân đến, trăm hoa lại nở;
Việc đời theo nhau ruổi qua trước mắt, 
Tuổi già hiện đến từ trên mái đầu; 
Đừng cho rằng xuân tàn thì hoa rụng mất,
Đêm qua, một cành mai đã nở trước sân.


Dịch thơ: 
I
Xuân ruổi trăm hoa rụng,
Xuân tới, trăm hoa cười;
Trước mắt việc đi mãi,
Trên đầu già đến rồi;
Đừng tưởng xuân tàn hoa rụng hết,
Đêm qua, sân trước một cành mai.
                                              Ngô Tất Tố


II 
Xuân đi hoa rụng tơi bời, 
Xuân về hoa lại ngời ngời sắc hương;
Việc qua trước mắt – chuyện thường,
Già theo mái tóc nhuốm sương tới dần;
Chớ rằng xuân hết, hoa tàn,
Đêm qua sân trước nở nhành mai tươi.
                                                    Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
Lý Trường, người Lũng Triền, hương An Cách, con  Trung Thư Ngoại Lang Lý Hoài Tố, thông cả Nho và Phật. Được vua Lý Nhân Tông tuyển vào cung, đặt tên là Hoài Tín. Sau đi tu, đi khắp nơi tìm bạn và rất đông học trò. Là nhân vật nổi tiếng trong thế hệ thứ tám dòng thiền Quan Bích.

Vua Lý Nhân Tông và hoàng hậu cho làm chùa ở cạnh cung Cảnh Hưng, mời ông đến ở, để tiện hỏi về đạo và bàn bạc việc nước, còn phong ông làm Nhập nội đạo tràng. 
Ông mất, vua đặt hiệu là Mãn Giác.