Showing posts with label Huệ Chi. Show all posts
Showing posts with label Huệ Chi. Show all posts

Feb 12, 2014

Tức sự

Tác giả: Trần Hiệu Khả 陳效可
即事
淵明愛醉我不醉
圖南愛睡我不睡 
頹然一枕樂天
醒來萬事都忘記

Uyên minh ái tuý ngã bất tuý
Đồ nam ái thuỵ ngã bất thụy
Đồi nhiên nhất chẩm lạc thiên chân
Tỉnh lai vạn sự đô vong ký

Dịch nghĩa:
Tức sự 
Uyên Minh thích say, ta chẳng say,
Đồ Nam thích ngủ, ta chẳng ngủ;
Ngả nghiêng một giấc, vui với tính trời,
Tỉnh dậy muôn việc đều quên hết.

Dịch thơ: 
Uyên Minh thèm say tớ chẳng thèm,
Đồ Nam thiết ngủ, tớ không thiết;
Điềm nhiên một giấc vui tính trời,
Tỉnh ra muôn việc đều quên tiệt. 
                                                 Huệ Chi 

II 
Ta chẳng say giống Đào Tiềm, 
Ta chẳng nhịn giống Đồ Nam ngủ hoài; 
Giấc ngon vui với tính trời, 
Tỉnh ra ngàn vạn sự đời đều quên. 
                                                  Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Tên Hiệu Khả, có sách chép là Phỏng Khả, hiệu Quất Lâm Tản Khanh, làm quan triều vua Trần Minh Tông (1314-1329) chức không to, nhưng gần vua. Ông là người lắm mưu mẹo. Có lần vua lấy ra hai hộp đựng áo, bảo một cái chính tay Thái Thượng làm, một cái do nội nhân Lê Kế làm, hỏi Khả xem cái nào khéo hơn, Khả xem hai, ba lần rồi đáp nước đôi: “Chúa thượng có cái tài khéo của chúa thượng, thần hạ cũng có cái khéo của thần hạ”, vua cũng phải phì cười. 
- Đào Tiềm tự Uyên Minh (365-427) làm quan Lệnh ở Bành Trạch, không ra đón Đốc Bưu do quan trên sai xuống, mà nói: “Không vì 5 đấu gạo mà khúm núm thờ bọn tiểu nhân”, rồi treo ấn từ quan về trồng cúc làm vui. 
- Đồ Nam tức Trần Đoàn đời Tống, có thể nhịn ăn và ngủ hàng trăm ngày.





Feb 11, 2014

Tương tịch ký kim sơn thiền sư kỳ nhị

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
將寂寄金山禪師 其二
蓄藥欲治病
無病安用藥
今有無米飯
無口人咬著

Súc dược dục trị bệnh
Vô bệnh an dụng dược
Kim hữu vô mễ phạn
Vô khẩu ngân giao trước

Dịch nghĩa: 
Sắp mất gửi Thiền sư Kim Sơn (bài 2) 
Tích thuốc muốn chữa bệnh, 
Không có bệnh dùng thuốc làm gì?
Nay có thứ cơm "không gạo",
Để cho người "không miệng" ăn.

Dịch thơ: 
I
Tích thuốc nhằm chữa bệnh,
Không bệnh, thuốc đâu cần?
Như có “cơm không gạo",
Cho “người không miệng" ăn. 
                                          Huệ Chi 

II 
Tích thuốc nhằm chữa ốm đau, 
Không đau ốm, thuốc nào đâu phải cần; 
Có “cơm không gạo” để phần, 
Cho “người không miệng” dùng ăn cho mình. 
                                                           Đỗ Quang Liên



Feb 10, 2014

Tương tịch ký kim sơn thiền sư kỳ nhất

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
將寂寄金山禪師其一
抱痾欲浹旬
夜臥晝服藥
不喫一粒米
粒粒皆咬著

Bão kha dục hiệp tuần
Dạ ngọa trú phục dược
Bất khiết nhất lạp mễ
Lạp lạp giai giảo trước

Dịch nghĩa: 
Sắp mất gửi thiền sư Kim Sơn (bài 1)
Mang bệnh đã gần trọn tuần,
Đêm nằm, ngày uống thuốc;
Không ăn một hột cơm,
Nhưng hạt nào cũng nhai.

Dịch thơ: 
Mang bệnh đã ngót tuần,
Đêm nằm, ngày uống thuốc;
Cơm một hột không ăn,
Mà hạt nào cũng nuốt. 
                                  Huệ Chi 

II 
Mang bệnh gần trọn một tuần, 
Đêm nằm, ngày lại thuốc nam uống vào; 
Không ăn một hạt cơm nào, 
Thế nhưng chẳng một hạt nào không nhai. 
                                                          Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Theo Thánh đăng ngũ lục: Kim Sơn, theo cách gọi của vua Trần Minh Tông là “Trúc Lâm đệ tam đại thiền tổ” có lẽ là một biệt hiệu của Huyền Quang chăng? Nhưng theo Tam Tổ thực lục thì Huyền Quang mất năm 1334, bấy giờ vua Minh Tông còn ở ngôi Thượng Hoàng, nghe tin bèn gửi tặng 10 lạng vàng để chùa xây tháp cho ông. Như vậy, Huyền Quang không thể là người chết sau vua Minh Tông được. Xin coi là một nghi vấn. 
- Trần Mạnh, con thứ tư của vua Trần Anh Tông, cháu ngoại Bảo Nghĩa Vương Trần Bình Trọng. Thuở nhỏ, vua cha sợ khó nuôi, cho Trần Nhật Duật đêm về nuôi như con. Năm 15 tuổi, vua cha lên làm Thượng Hoàng, Minh Tông lên kế vị.



Jan 30, 2014

225. Đề đông sơn tự

Tác giả: Trần Mạnh 陳奣
題東山寺
雲似青山山似雲
雲山長與老僧親
自從圓公去世後
天下釋子空無人

Vân tự thanh sơn sơn tự vân
Vân sơn trường dữ lão tăng thân
Tự tòng viên công khứ thế hậu
Thiên hạ thích tử không vô nhân

Dịch nghĩa: 
Đề chùa Đông Sơn 
Mây giống núi xanh, núi xanh giống mây,
Mây và núi mãi mãi gần gũi với sư già;
Từ sau khi Viên Công qua đời, 
Thích tử trong thiên hạ không còn ai nữa.

Dịch thơ: 
Núi như mây biếc, mây như núi, 
Mây núi cùng sư bạn một đời;
Từ thuở Viên công lìa cõi thế,
Dưới trần Thích tử chẳng còn ai. 
                                              Huệ Chi 

II 
Núi, mây đượm một màu xanh, 
Mãi luôn thắm thiết quấn quanh Sư già; 
Viên Công từ khuất nẻo xa, 
Không ai thiên hạ còn là chân tu. 
                                                          Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Đông Sơn: Việt âm thi tập ghi: chùa làm từ thời Lý trên núi Chương Sơn, huyện Ý Yên, nay thuộc Hà Nam. Sách An Nam chí lược thì ghi: Đông Sơn cùng với Bình Sơn, Yên Tử sơn và Thiên Kỳ sơn đều là danh thắng nước ta. 
- Viên Công: có lẽ tác giả muốn chỉ vào Viên Chiếu, một vị cao tăng đời Lý.



Jan 15, 2014

Cúc hoa bách vịnh kỳ tam

Tác giả: Trương Hán Siêu 張漢超
Dịch thơ: Huệ Chi

菊花百詠其三
重陽時節今朝是
故國黃花開未開
卻憶琴樽前日雅
幾回搔首賦歸來

Trùng dương thời tiết kim triêu thị
Cố quốc hoàng hoa khai vị khai
Khước ức cầm tôn tiền nhật nhã
Kỷ hồi tao thủ phú quy lai

Dịch nghĩa: 
Vịnh hoa cúc (bài 3)
Sáng nay là tiết Trùng Dương,
Không hiểu hoa vàng nơi quê cũ đã nở chưa?
Lại nhớ tới thú vui tao nhã uống rượu gảy đàn ngày trước,
Mấy lần gãi đầu làm bài thơ "quy lai".

Dịch thơ: 
Sớm nay lại đến tết Trùng Dương, 
Hoa nở hay chưa? – chốn cố hương; 
Nhớ thú rượu đàn vui thuở trước, 
Vò đầu mấy bận viết về vườn. 

II 
Sớm nay vừa tiết trùng dương,
Chẳng hay quê cũ hoa vàng nở chưa?
Rượu đàn chạnh nhớ thú xưa,
Vò đầu, mấy bận làm thơ "đi về".


Chú thích: 
- Trùng Dương, ngày 9 tháng 9 âm lịch. Âm dương gia gọi số 9 là số dương, mồng 9 tháng 9 là hai sô dương nên gọi là Trùng Dương. 
- Quy lai: Đào Tiềm đời Tấn (Trung Quốc) khi bỏ quan về nhà có làm bài “Quy khứ lai từ”, nói lên tình cảm cao khiết của người ở ẩn đối với ruộng vườn và nỗi nhọc nhằn của kẻ làm quan. Ở đây, Trương Hán Siêu có ý nói mình cũng muốn nghỉ quan.


Jan 2, 2014

Đề đạm thủy tự

Tác giả: Huyền Quang 玄光

題淡水寺
淡水亭邊野草多
空山雨霽夕陽斜
因過輦路投禪室
擁梵敲鐘揀落花

Đạm thuỷ đình biên dã thảo đa
Không sơn vũ tễ tịch dương tà
Nhân qua liễn lộ đầu thiền thất
Ủng phạm xao chung giản lạc hoa

Dịch nghĩa: 
Đề chùa Đạm Thủy
Bên đình Đạm Thuỷ nhiều cỏ nội, 
Núi quang, mưa tạnh, bóng chiều chênh chếch.
Nhân qua con đường vua đi mà vào am thiền,
Giúp nhà chùa thỉnh chuông và nhặt hoa rơi.

Dịch thơ: 
I
Bên đình Đạm Thuỷ cỏ đua tươi, 
Mưa tạnh non quang, bóng ngả dài; 
Tiện lối xe vua vào vãng Phật, 
Thỉnh chuông, giúp sãi nhặt hoa rơi. 
                                                   Huệ Chi 

II
Bên đình, cỏ nội bao nhiêu, 
Núi quang, mây tạnh, ánh chiều nghiêng nghiêng; 
Qua lối vua, tới am thiền, 
Nhặt hoa, sớm tối thỉnh chuông giúp chùa. 
                                                                 Đỗ Quang Liên 




Nov 27, 2013

Đề Động Hiên đàn việt giả sơn

Tác giả: Huyền Quang 玄光
題洞軒檀越假山
花木夤緣種作山
籠煙罩月落花寒
從茲念慮都無俗
贏得清風一枕安

Hoa mộc di duyên chủng tác sơn 
Lung yên trạo nguyệt lạc hoa hàn 
Tùng tư niệm lự đô vô tục 
Doanh đắc thanh phong nhất chẩm an

Dịch nghĩa: 
Đề núi non bộ của thí chủ ở Động Hiên 
Trồng hoa và cây quấn quýt làm thành núi non bộ, 
Khói toả trăng lồng, hoa rơi lạnh lẽo; 
Từ nay những mối suy nghĩ không còn vương tục luỵ, 
Giành được giấc ngủ êm đềm trước luồng gió trong mát.

Dịch thơ: 
Quanh quất cây leo, núi chất chồng, 
Hoa rơi lạnh giữa khói trăng lồng; 
Từ nay niệm tục thôi vương vấn, 
Chiếc gối an nhàn trước gió trong. 
                                                  Huệ Chi 

II 
Cây leo quấn quýt thành non, 
Hoa rơi lạnh lẽo, trăng lồng khói thưa; 
Niệm trần, rày hết vương tơ, 
Trong luồng gió mát giấc mơ êm đềm. 
                                                      Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
Thí chủ (Đàn việt): bắt nguồn từ thuật ngữ Đà Na Bát Đê, phiên âm từ tiếng Phạn Dânapati (Đàn là Đà Na gọi tắt, nghĩa là bố thí), nghĩa là những vị thí chủ có hằng tâm, hằng sản, thường bố thí cho nhà chùa. Sau Phật giáo Trung Quốc thêm vào chữ Việt (có nghĩa vượt qua), ý nói những người bố thí có thể vượt qua được bể khổ.




Nov 26, 2013

Phiếm chu

Tác giả:  Huyền Quang 玄光
泛舟
小艇乘風泛渺茫
山青水綠又秋光
數聲漁笛蘆花外
月落波心江滿霜



Tiểu đĩnh thừa phong phiếm diểu mang 
Sơn thanh thuỷ lục hựu thu quang 
Sổ thanh ngư địch lô hoa ngoại 
Nguyệt lạc ba tâm giang mãn sương

Dịch nghĩa: 
Chơi thuyền 
Chiếc thuyền con lướt gió lênh đênh trên dòng sông bát ngát, 
Non xanh, nước biếc, lại thêm ánh sáng mùa thu; 
Vài tiếng sáo làng chài ngoài khóm hoa lau, 
Trăng rơi đáy sóng, mặt sông đầy sương.

Dịch thơ: 
Lướt gió thuyền con ruổi tít mù, 
Non xanh nước biếc, ánh trời thu; 
Khuất lau, sáo nổi vài ba tiếng, 
Sương phủ, trăng chìm dưới sóng sâu. 
                                                      Huệ Chi 

II 
Thuyền nương theo gió mênh mang, 
Non xanh nước biếc, thu vàng chơi vơi; 
Bên lau, đôi tiếng sáo chài, 
Trăng in sóng nước, sông đầy hơi sương. 
                                                         Đỗ Quang Liên





Nov 25, 2013

175. Ai phù lỗ

Tác giả: Huyền Quang 玄光
哀俘虜
刳血書成欲寄音
孤飛寒雁塞雲深
幾家愁對今霄月
兩處茫然一種心

Khoá huyết thư thành dục ký âm 
Cô phi hàn nhạn tái vân thâm 
Kỷ gia sầu đối kim tiêu nguyệt 
Lưỡng xứ mang nhiên nhất chủng tâm

Dịch nghĩa: 
Thương tên giặc bị bắt 
Chích máu viết thư muốn gửi lời, 
Cánh nhạn cô đơn lạnh giá bay vào đám mây dày nơi  biên tái;
Bao nhiêu nhà buồn trông ánh trăng đêm nay?
Đôi nơi xa cách nhưng nỗi lòng thương nhớ vẫn chỉ là một.

Dịch thơ:
Chích máu thành thơ mượn gửi lời,
Lẻ loi nhạn lạnh, ải mù khơi; 
Đêm nay mấy kẻ sầu trăng nhỉ? 
Xa cách, nhưng lòng chỉ một thôi. 
                                              Huệ Chi 

II 
Gửi lời, chích máu viết thư,
Mây dày biên tái, bơ vơ cánh nhàn; 
Đêm nay bao kẻ sầu trăng, 
Đôi nơi chung một nỗi lòng nhớ thương. 
                                                      Đỗ Quang Liên



Nov 23, 2013

Sơn vũ

Tác giả: Huyền Quang 玄光
山宇
秋風午夜拂簷牙
山宇蕭然枕綠蘿
已矣成禪心一片
蛩聲唧唧為誰多

Thu phong ngọ dạ phất thiềm nha 
Sơn vũ tiêu nhiên chẩm lục la 
Dĩ hỹ thành thiền tâm nhất phiến 
Cung thanh tức tức vị thuỳ đa

Dịch nghĩa: 
Nhà trong núi 
Đêm khuya gió thu sịch động bức rèm, 
Nhà núi đìu hiu gối vào chùm dây leo xanh biếc; 
Thôi rồi, lòng ta đã hoàn toàn yên tĩnh, 
Tiếng dế vì ai vẫn rầu rĩ mãi.

Dịch thơ: 
Gió thu khuya khoắt thoảng hiên ngoài, 
Quạnh quẽ nhà non lấp ruối gai; 
Thôi đã theo Thiền lòng lặng tắt, 
Nỉ non tiếng dễ vẫn vì ai? 
                                    Huệ Chi 

II 
Gió thu khuya động trước thềm, 
Nhà trong khóm lá lặng êm giấc nồng; 
Mảnh lòng đã gửi Thiền môn, 
Vì ai tiếng dế nỉ non đêm dài. 
                                          Đỗ Quang Liên 






Nov 18, 2013

170. Ðịa lô tức sự

Tác giả: Huyền Quang 玄光
地爐即事
煨餘榾柮色焚香
口答山童問短章
手把吹商和采蘀
徒教人笑老僧忙

Ổi dư cốt đột tuyệt phần hương 
Khẩu đáp sơn đồng vấn đoản chương 
Thủ bả xuy thương hoà thái thác 
Ðồ giao nhân tiếu lão tăng mang

Dịch nghĩa:
Trước bếp lò tức cảnh  
Củi đã tàn, cũng chẳng thắp hương, 
Miệng trả lời chú bé hỏi về những chương sách ngắn; 
Tay cầm ống thổi, tay nhặt mo nang, 
Luống để người ta cười vị sư già này bận bịu.

Dịch thơ: 
Củi tàn thôi chẳng thắp thêm hương,
Miệng đáp gia đồng hỏi mấy chương; 
Bận bịu cho ai cười chế lão, 
Liền tay ống thổi với mo nang. 
                                               Huệ Chi

II
Củi tàn, thôi chẳng thắp hương, 
Trả lời trò hỏi mấy chương kinh vàng; 
Tay ống thổi, tay mo nang, 
Để người cười bậc lão tăng hay làm. 
                                                Đỗ Quang Liên






Nov 15, 2013

Thạch thất

Tác giả: Huyền Quang 玄光
石室
半間石室和雲住
一領毳衣經歲寒
僧在禪床經在案
爐殘榾柮日三竿

Bán gian thạch thất hoà vân trụ 
Nhất lĩnh xối y kinh tuế hàn 
Tăng tại thiền sàng kinh tại án 
Lô tàn cốt đột nhật tam can

Dịch nghĩa: 
Nhà đá 
Nửa gian nhà đá, ở lẫn cùng mây, 
Một tấm áo lông, trải hết mùa đông rét mướt; 
Sư ở trên giường thiền, kinh ở trên án, 
Lò tàn, củi lụi, mặt trời lên đã ba cây sào.

Dịch thơ: 
I
Nửa gian nhà đá, bạn cùng mây, 
Tấm áo lông thô, lạnh tháng ngày; 
Sư khểnh giường thiền, kinh trước án. 
Lò tàn, than lụi, sáng nào hay. 
                                         Huệ Chi 

I
Nửa gian nhà đá, mây xòa, 
Một manh áo ấm mặc qua đông hàn;
Kinh trên án, sư trong am, 
Lò tàn, củi lụi, trời ngang cây sào. 
                                  Đỗ Quang Liên




Nov 14, 2013

Chu trung

Tác giả: Huyền Quang 玄光
舟中 
一葉扁舟湖海客
撐出葦行風戚戚
微茫四顧晚潮生
江水連天一鷗白
Nhất diệp biển chu hồ hải khách
Xanh xuất vi hành phong thích thích 
Vi mang tứ cố vãn triều sinh 
Giang thủy liên thiên nhất âu bạch

Dịch nghĩa: 
Trong thuyền 
Một lá thuyền con, một khách hải hồ, 
Chèo khỏi rặng lau, tiếng gió xào xạc; 
Bốn bề mịt mù, con nước buổi chiều đương lên, 
Một chim âu trắng giữa khoảng trời nước liền nhau.

Dịch thơ: 
I
Giang hồ tếch một lá thuyền con, 
Chèo khỏi hàng lau, gió dập dồn; 
Trắng xóa chim âu trời lẫn nước, 
Mịt mù bốn phía ngọn triều tuôn. 
                                           Huệ Chi 

II
Dấu khách giang hồ thuyền một lá, 
Hàng lau lách gió chèo thong thả;
Bốn bề trông quạnh ngọn triền lên,
Nước biếc liền trời âu trắng xoá. 
                                           Đinh Văn Chấp 

III 
Khách du một lá thuyền con, 
Gió chiều xào xạc tách hàng lau thưa;
Triều lên bốn phía lờ mờ, 
Liền trời sông nước, lượn lờ cánh âu. 
                                                     Đỗ Quang Liên




Nov 11, 2013

165. Xuân nhật tức sự

Tác giả: Lý Đạo Tái (Huyền Quang 1254-1334) 李道載玄光
春日即事 
二八佳人刺繡遲
紫荊花下囀黃鸝
可憐無限傷春意
盡在停針不語時
Nhị bát giai nhân thích tú trì 
Tử kinh hoa hạ chuyển hoàng ly 
Khả liên vô hạn thương xuân ý 
Tận tại đình châm bất ngữ thì

Dịch nghĩa: 
Tức cảnh ngày xuân 
Người đẹp tuổi vừa đôi tám, ngồi thêu gấm chậm rãi, 
Dưới lùm hoa tử kinh, líu lo tiếng chim oanh vàng; 
Thương biết bao nhiêu cái ý thương xuân của nàng, 
Cùng dồn lại ở một giây phút, dừng kim và im phắc.

Dịch thơ: 
Lỏng tay thêu gấm, gái yêu kiều, 
Hoa rợp, oanh vàng lảnh lót kêu; 
Bao nỗi thương xuân, thương biết mấy, 
Là khi không nói, chợt dừng thêu.
                                                   Huệ Chi 

II 
Lỏng tay thêu, gái yêu kiều, 
Dưới hoa, lảnh lót tiếng kêu oanh vàng; 
Thương thay dồn nén bẽ bàng, 
Là khi ngồi lặng, chợt dừng mũi kim. 
                                             Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Đạo Tái là người hương Vạn Tải, châu Nam Sách, lộ Lạng Giang (nay thuộc tỉnh Bắc Ninh). Hai mươi tuổi đỗ thi hương, năm sau đỗ đầu thi hội, làm Viện Nội Hàn, nhưng sau đi tu. Ông được vua Trần Nhân Tông giao cho Pháp Loa thiền sư hướng dẫn, sau thành Tổ thứ 3 dòng thiền Trúc Lâm. Ông là nhà sư, đồng thời là thi sĩ đời Trần. Phan Huy Chú đã khen thơ ông: “ý tinh tế, cao siêu, lời thơ bay bướm, phóng khoáng”. Hiện nay còn khoảng 24 bài thơ. (Bài trên đã được xác minh lại là thơ thần đời Tống)



Nov 5, 2013

160. Tràng An hoài cổ

Tác giả: Trần Quang Triều 陳光朝
長安懷古
河岳終存故國非
數行陵柏背斜暉
舊時王氣埋秋草
暮雨蕭蕭野蝶飛

Hà nhạc chung tồn cố quốc phi 
Sổ hàng lăng bách bối tà huy 
Cựu thời vương khí mai thu thảo 
Mộ vũ tiêu tiêu dã điệp phi

Dịch nghĩa: 
Trường An hoài cổ 
Sông núi rốt cuộc vẫn còn mà nước cũ đã đổi khác, 
Mấy hàng bách trồng trên gò đứng phơi lưng dưới nắng chiều; 
Khí đế vương triều xưa chôn vùi dưới cỏ mùa thu, 
Mưa chiều hiu hắt bướm nội bay.

Dịch thơ: 
Núi sông còn đó, nước xưa đâu, 
Nắng xế gò cao, bách dãi dầu; 
Vương khí một thời chôn dưới cỏ, 
Bướm đồng chao cánh dưới mưa mau. 
                                                        Huệ Chi 

II 
Núi sông đó, triều cũ đâu? 
Lưng gò, hàng bách dãi dầu nắng phơi; 
Cỏ trùm vương khí một thời, 
Bướm đồng bay nhởn, hắt hiu mưa chiều. 
                                                       Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Quang Triều, còn có tên là Nguyên Đạo và Nguyên Thụ, hiệu Cúc Đường chủ nhân và Võ Sơn Ông, nguyên quán Tức Mặc, Thiên Trường, Nam Định; là con trai cả Trần Quốc Tảng, cháu nội Trần Quốc Tuấn, anh vợ vua Trần Anh Tông. 
Mới 14 tuổi, ông đã được phong Văn Huệ Vương. Ông văn võ kiêm toàn, từng cầm quân đánh dẹp Thích Na. 
Sau khi vợ ông là công chúa Thượng Trân mất, ông muốn cáo quan, cuối cùng về ở ẩn am Bích Động, gần chùa Quỳnh Lâm, nay thuộc Đông Triều, tỉnh Quảng Ninh, lập ra thi xã Bích Động. Năm 1324, vua Trần Minh Tông triệu ra, giao chức Nhập nội kiểm hiệu tư đồ, nhưng không bao lâu thì mất. Các bạn ông đã biên tập thơ ông thành Cúc Đường di cảo, được Phan Huy Chú đánh giá là thanh thoát, đáng ưa.


Oct 30, 2013

Vịnh cúc kỳ nhị

Tác giả: Đỗ Khắc Chung 杜克鍾
詠菊其二
重陽摘蕊陶釀醉
秋夕餐英屈愛香
二老風流千載遠
天教菊隱出承當

Trùng dương trích nhuỵ đào nhương tuý 
Thu tịch xan anh khuất ái hương 
Nhị lão phong lưu thiên tải viễn 
Thiên giao cúc ẩn xuất thừa đương

Dịch nghĩa: 
Vịnh hoa cúc (bài 2)
Tiết trùng dương hái nhị, họ Đào ủ men say, 
Chiều thu ngậm cánh hoa, họ Khuất yêu hương ngát; 
Phong độ hai ông già đã nghìn năm xa rồi, 
Nay trời trao chức “hoa cúc ẩn dật” phải ra gánh vác.


Dịch thơ:
Trùng cửu hái hoa, Đào cất rượu, 
Chiều thu nếm nhuỵ, Khuất yêu hương. 
Phong lưu hai vị nghìn năm khuất, 
Cúc Ẩn trời trao, hãy đảm đương. 
                                             Huệ Chi 

II 
Ủ men hoa hái Trùng Dương, 
Chiều thu nếm nhụy, yêu hương cúc nồng, 
Hai già đã cách ngàn trùng, 
Trời cao Cúc Ẩn ra đương việc đời. 
                                                 Đỗ Quang Liên



Chú thích: 
- Trùng Dương: tết mùng 9 tháng 9; Đào Tiềm (tự là Uyên Minh, 365-427) yêu hoa cúc. Câu thứ nhất muốn nói Đào Tiềm, ngày 9 tháng 9 hái hoa cúc, ủ men nấu rượu. 
- Câu 2 muốn nói đến Khuất Nguyên (340-278 TCN) người nước Sở thời Chiến Quốc, tính trung thực, cao khiết, bị vua nước Sở bỏ rơi, ông làm bài Ly Tao nổi tiếng, trong bài thường dùng hoa cúc, ví với phẩm chất trong sạch của mình. 
- Câu 4, tác giả có ý chỉ mình, vì tên tự của ông là Cúc Ẩn.