Showing posts with label Nguyễn Sĩ Cố. Show all posts
Showing posts with label Nguyễn Sĩ Cố. Show all posts

Oct 22, 2013

Tụng giá tây chinh yết Bạch Hạc giang Hiển Uy Vương từ

Tác giả: Nguyễn Sĩ Cố 阮士顧
從駕西征謁白鶴江顯威王祠
龜魚符印掛腰間
茲事希求付將官
薄劣書生無望處
祗來祠下乞平安

Quy ngư phù ấn quải yêu gian
Tư sự hy cầu phó tướng quan 
Bạc liệt thư sinh vô vọng xứ 
Chỉ lai từ hạ khất bình an

Dịch nghĩa: 
Phò giá vua chinh phạt phía tây, bái yết đền thờ Hiển Uy Vương ở sông Bạch Hạc 
Lưng đeo bùa ấn hình cá, hình rùa, 
Việc cầu khấn này phó thác cho quan và tướng;
Kẻ học trò yếu đuối không có ước vọng gì, 
Dưới đền chỉ xin khấn chữ bình an.

Dịch thơ: 
Ấn phù "rùa cá" khoác trên mình, 
Mặc tướng cùng quan khấn việc binh; 
Kẻ học trò xoàng không nguyện ước, 
Dưới đền xin khấn chữ yên lành. 
                                           Trần Lê Văn 

II 
Lưng đeo ấn cá, ấn rùa, 
Những việc như thế để chờ tướng, quan; 
Thư sinh bạc nhược yếu hèn, 
Kính xin hai chữ Bình an cửa đền. 
                                           Đỗ Quang Liên 


Chú thích:
- Bài thơ làm vào năm 1294, cùng với bài Tụng giá tây chinh yết Tản Viên từ 
- Bạch Hạc là ngã ba sông Thao, sông Đà và sông Lô hợp lưu, thuộc tỉnh Phú Thọ. 
- Ấn hình cá, hình rùa là những thứ triều đình tặng cho các võ tướng có nhiều chiến công.


Oct 21, 2013

150. Tụng giá tây chinh yết Tản Viên từ

Tác giả: Nguyễn Sĩ Cố (?-1312) 阮士顧
從駕西征謁傘圓祠
山似天高晨岳靈
心香纔叩已聞聲
媚娘亦具威儀者
且為書生保此行

Sơn tự thiên cao thần nhạc linh 
Tâm hương tài khấu dĩ văn thanh 
Mỵ nương diệc cụ uy nghi giả 
Thả vị thư sinh bảo thử hành

Dịch nghĩa: 
Phò giá nhà vua chinh phạt phía tây, bái yết đền thờ Tản Viên 
Núi cao như trời, thần núi linh thiêng, 
Một nén hương lòng vừa cúi đầu khấn đã nghe tiếng vọng; 
Mỵ Nương nếu là vị thần đầy đủ uy nghi, 
Thì hãy phù hộ kẻ thư sinh trong chuyến đi này.

Dịch thơ:
Núi chạm trời cao, thần núi linh, 
Hương lòng vừa khấn đã nghe danh;
Mỵ Nương nếu quả uy nghi thực, 
Giúp học trò qua cuộc viễn trình. 
                     Phạm Tú Châu - Huệ Chi 

II 
Khí thiêng, núi dựng ngất trời, 
Khấu đầu, Thần đã thấu lời cầu xin; 
Mỵ Nương oai vũ hiển linh, 
Chinh Tây, phù hộ thư sinh chuyến này. 
                                                  Đỗ Quang Liên


Chú thích:
- Sĩ Cố để lại tiểu sử chưa thật rõ ràng về năm sinh, quê quán và hành trạng. Chỉ biết, ông trước khi làm quan đã mở trường dạy học, nhiều học trò giỏi như Phạm Ngộ, Phạm Mại. Năm 1277, được vua Trần Thánh Tông vời về kinh nhậm chức Nội thị học sỹ, dạy Hoàng tử Trần Khâm. Năm 1306, đời vua Trần Anh Tông (1293-1313) thăng Học sỹ, coi việc giảng Ngũ kinh ở gác Thiên Chương. Năm 1312, theo vua Trần Anh Tông đi đánh phía Nam, dọc đường ông bị bệnh, mất. Ông có tài làm thơ, phú tiếng Việt (nước ta mới bắt đầu hình thành) và tài khôi hài, người đương thời sánh ông với Đông Phương Sóc đời Hán.
- Tản Viên: tên núi Ba Vì, Hà Nội, nơi có truyền thuyết Sơn Tinh, Thủy Tinh. 
- Mỵ Nương: con gái vua Hùng thứ 18, được gả cho Sơn Tinh.