Showing posts with label Viết và Dịch tập 2. Show all posts
Showing posts with label Viết và Dịch tập 2. Show all posts

Aug 21, 2015

595. Thu dạ hữu hoài



Tác giả Hồ Xuân Hương 胡春香

留香記
秋夜有懷

夜深人静獨躊躇
雲楼酒冷銀環半
水闊風長玉漏孤
花花月月主人吾
春寂寂
春興不多乎
鴈影何歸雲自
虫聲如哭水空流
歲晏須憐


Dạ thâm nhân tĩnh độc trù trừ 
Vân lâu tử lãnh ngân hoàn bán 
Thủy khoát phong trường ngọc lậu cô 
Hoa hoa nguyệt nguyệt chủ nhân ngô 
Xuân tịch tịch 
Xuân hứng bất đa hồ 
Nhạn ảnh hà quy vân tự trụ 
Trùng thanh như khốc thủy không lưu 
Tuế yến tu liên

Dịch: Bùi Hành Cẩn 
Đêm thu cảm hoài 

Đêm sâu người lặng riêng ngẩn ngơ 
Lầu mây rượu lạnh nửa vòng bạc 
Nước láng gió dài giọt đồng tơ 
Hoa hoa trăng trăng chừ là ta 
Xuân vắng vẻ 
Hứng Xuân chẳng nhiều ư! 
Bóng nhạn về đâu mây ở lại 
Dế giun như khóc nước trôi hờ 
Năm tàn nên lo




Aug 19, 2015

Thiếu niên du điệu



Tác giả Hồ Xuân Hương 胡春香

留香記
少年遊調

瓊筵坐花
披觴對月
風流屬誰家
李子飛毫
徐妃援筆
思雅入詩歌
今夕是如何
蹴席談心
迴燈叙事
撫筆一呵呵

Quỳnh diên tọa hoa
Phi trường đối nguyệt 
Phong lưu thuộc thùy gia 
Lý tử phi hào 
Từ phi viên bút 
Tư nhã nhập thi ca 
Kim tịch thị như hà 
Xúc tịch đàm tâm 
Hồi đăng tự sự 
Phủ bút nhất kha kha

Dịch: Bùi Hạnh Cẩn  
Điệu tuổi trẻ rong chơi 

Tiệc quỳnh nở hoa 
Nâng ly chuốc nguyệt 
Phong lưu nhà nào a? 
Ông Lý nét bay 
Nàng Từ đưa bút 
Thanh nhã vào thơ ca 
Tối nay thế nào giờ? 
Trên chiếu trao niềm 
Bên đèn kể nỗi 
Vỗ bút cười ha ha …





Aug 7, 2015

Nghĩ tô vũ nhạn thư



Tác giả: Khuyết danh 
Sưu tập từ xã Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Hà Nội 

Dịch: Đỗ Quang Liên 

擬蘇武雁書
使旄擁雪迹淹胡地山川
客思随風愁繞漢天日月
帛書壹片心事重封
臣蘇武等
忝介使之微才叨虜庭之專對
四方馹驛馳驅遙駕於周原
兩字忠貞梦寐思完於趙壁
屈膝不從於鼠拱
拘囚徒苦於雉羅
野草凄凉空飮薧中之雪
歲花荏苒未乳海上之羝
節傲雪以久持
旄向風而盡落 
氈裘地苦蕭蕭吹朔漠之寒
紫塞秋深寂寞隻征鴻之影
斗指南而留北日載東而向西
故國魂飛梦遶三更之月
他鄉淚洒愁侵九曲之腸
百端欲冩於遐思
萬里難通於逺信
徒抱忠君之念壹片丹心
瘕勝懷土之情雙莖白髮
思聖主方弘於柔遠
故愚臣有意扵歸朝
帝闕路遙彌切狐邱之念
上林秋早敢憑雁足之書
冀達九霄恕通寸念
臣稽首不勝翹望之至
謹書

Sứ mao ủng tuyết tích yêm hồ địa sơn xuyên 
Khách tứ tùy phong sầu nhiễu hán thiên nhật nguyệt 
Bạch thư nhất phiến tâm sự trùng phong 
Thần Tô vũ đẳng 
Thiểm giới sứ chi vi tài thao lỗ đình chi chuyên đối 
Tứ phương nhật dịch trì khu dao giá ư chu nguyên 
Lưỡng tự trung trinh mộng mị tư hoàn ư triệu bích 
Khuất tất bất tòng ư thử củng 
Câu tù đồ khổ ư trĩ la 
Dã thảo thê lương không ẩm khảo trung chi tuyết 
Tuế hoa nhẫm nhiễm vị nhũ hải thượng chi đê 
Tiết ngạo tuyết dĩ cửu trì 
Mao hướng phong nhi tận lạc 
Chiên cừu địa khổ tiêu tiêu xuy sóc mạc chi hàn 
Tử tái thu thâm tịch mịch chích chinh hồng chi ảnh 
Đẩu chỉ nam nhi lưu bắc nhật tái đông nhi hướng tây 
Cố quốc hồn phi mộng nhiễu tam canh chi nguyệt 
Tha hương lệ sái sầu xâm cửu khúc chi trường 
Bách đoan dục tả ư hà tư 
Vạn lý nan thông ư viễn tín 
Đồ bão trung quân chi niệm nhất phiến đan tâm 
Hà thăng hoài thổ chi tình song hành bạch phát 
Tư thánh chúa phương hoằng ư nhu viễn 
Cố ngu thần hữu ý ư quy triều 
Đế khuyết lộ dao di thiết hồ khâu chi niệm 
Thượng lâm thu tảo cảm bằng nhạn túc chi thư 
Ký đạt cửu tiêu thứ thông thốn nhiệm 
Thần khể thủ bất thăng kiều vọng chi chí 
Cẩn thư

Dịch nguyên thể: Nghĩ hộ bức thư gửi qua chim nhạn của Tô Vũ 

Cờ mao tuyết lấp, vết chìm sông núi đất Hồ; 
Tình khách gió đưa, sầu uẩn tháng năm trời Hán. 
Thư dâng một bức, tâm sự mấy tầng. 
Kẻ bầy tôi là Tô Vũ: 
Thẹn là Sứ, với tài hèn, giữa sân thù lo đối đáp, 
Bốn phương ngựa trạm, rong ruổi xa khuất đất nhà Chu; 
Hai chữ Trung trinh, mộng mị gần bên tướng nước Triệu. 
Quỳ gối chẳng theo vòng tay chuột; 
Giam tù cam khổ với lưới chim. 
Cây cỏ buồn rầu, bình mẻ tuyết rơi để uống; 
Tháng năm đằng đẵng, biển xa dê đực chưa sinh.
Tiết, tuyết cợt, gắng giữ gìn; 
Cờ, gió bay, nên rách tướp. 
Đất thù khốn khổ, sắt se gió sa mạc lạnh lùng; 
Quan ải xa xôi, quạnh quẽ cánh chim hồng chiếc bóng. 
Sao chỉ Nam mà quang Bắc, Trời phía Đông mà hướng Tây. 
Quê cũ hồn về, mộng ngợp ba canh lãnh cô nguyệt; 
Đất người lệ nhỏ, sầu đau chín khúc đoạn trường. 
Trăm bề muốn viết nỗi lòng xa, muôn dặm khó thông tin tức vắn.
Ý nhiệm trung quân đau đáu, một tấm lòng son; 
Cảm tình nhớ nước dạt dào, hai mai tóc bạc. 
Ơn Thánh Chúa rộng nhìn nơi xa ngái; 
Nên ngu thần có ý được về chầu. 
Đường đến kinh xa, tha thiết cáo mong về tổ; 
Thu sang rừng vắng, cậy nhờ nhạn chuyển thư chân. 
Dâng gửi trời cao, cảm thông ý mọn. 
Bày tôi rập đầu, khôn xiết vô cùng trông đợi. 
Cẩn thư





Aug 6, 2015

Ca trù: Xướng ca đệ tứ trù văn



(Lời Hát nói Ca trù)
Tác giả: Khuyết danh 

Dịch: Đỗ Quang Liên

缺名唱歌第四籌文
文武聖神
貞淑慈懿
揮月斧而圖成七郡
漢世並雄
叶梦桃而表六宫
桐鄉誌瑞
式遵常例
節屬秋初
祈福唱歌
席開第四
伏望鑒臨
俾兼福履
童遙老壤村民共樂於昇平
物阜人康闔境均陶於富庶


Văn võ thánh thần 
Trinh thục từ ý 
Huy nguyệt phủ nhi đồ thành thất quận 
Hán thế tịnh hùng 
Hiệp mộng đào nghi biểu lục cung 
Đồng hương chí thụy 
Thức tuân thường lệ 
Tiết thuộc thu sơ 
Kỳ phúc xướng ca 
Tịch khai đệ tứ 
Phục vọng giám lâm 
Tỉ khiêm phúc lý 
Đồng dao lão nhưỡng thôn dân cộng lạc ư thăng bình 
Vật phụ nhân khang hạp cảnh quân đào ư phú thứ

Dịch nguyên thể: Bài ca trù thứ tư 

Văn võ thánh thần 
Đoan trang hiền thục 
Vung rìu nguyệt mà dựng nên bảy quận, nhà Hán sánh ngang; 
Đạp mộng đào mà phép sáng sáu cung, làng Đồng điềm tốt. 
Nay theo thường lệ 
Tiết thuộc đầu Thu 
Cầu phúc xướng ca 
Thứ tư chầu hát 
Mong được giám lâm, 
Ban cho hạnh phúc. 
Trẻ ca già hát, thôn dân cùng sống cảnh thanh bình; 
Của lắm người vui, khắp cõi thảy đều là sung túc.