Aug 7, 2015

Nghĩ tô vũ nhạn thư



Tác giả: Khuyết danh 
Sưu tập từ xã Hữu Bằng, huyện Thạch Thất, Hà Nội 

Dịch: Đỗ Quang Liên 

擬蘇武雁書
使旄擁雪迹淹胡地山川
客思随風愁繞漢天日月
帛書壹片心事重封
臣蘇武等
忝介使之微才叨虜庭之專對
四方馹驛馳驅遙駕於周原
兩字忠貞梦寐思完於趙壁
屈膝不從於鼠拱
拘囚徒苦於雉羅
野草凄凉空飮薧中之雪
歲花荏苒未乳海上之羝
節傲雪以久持
旄向風而盡落 
氈裘地苦蕭蕭吹朔漠之寒
紫塞秋深寂寞隻征鴻之影
斗指南而留北日載東而向西
故國魂飛梦遶三更之月
他鄉淚洒愁侵九曲之腸
百端欲冩於遐思
萬里難通於逺信
徒抱忠君之念壹片丹心
瘕勝懷土之情雙莖白髮
思聖主方弘於柔遠
故愚臣有意扵歸朝
帝闕路遙彌切狐邱之念
上林秋早敢憑雁足之書
冀達九霄恕通寸念
臣稽首不勝翹望之至
謹書

Sứ mao ủng tuyết tích yêm hồ địa sơn xuyên 
Khách tứ tùy phong sầu nhiễu hán thiên nhật nguyệt 
Bạch thư nhất phiến tâm sự trùng phong 
Thần Tô vũ đẳng 
Thiểm giới sứ chi vi tài thao lỗ đình chi chuyên đối 
Tứ phương nhật dịch trì khu dao giá ư chu nguyên 
Lưỡng tự trung trinh mộng mị tư hoàn ư triệu bích 
Khuất tất bất tòng ư thử củng 
Câu tù đồ khổ ư trĩ la 
Dã thảo thê lương không ẩm khảo trung chi tuyết 
Tuế hoa nhẫm nhiễm vị nhũ hải thượng chi đê 
Tiết ngạo tuyết dĩ cửu trì 
Mao hướng phong nhi tận lạc 
Chiên cừu địa khổ tiêu tiêu xuy sóc mạc chi hàn 
Tử tái thu thâm tịch mịch chích chinh hồng chi ảnh 
Đẩu chỉ nam nhi lưu bắc nhật tái đông nhi hướng tây 
Cố quốc hồn phi mộng nhiễu tam canh chi nguyệt 
Tha hương lệ sái sầu xâm cửu khúc chi trường 
Bách đoan dục tả ư hà tư 
Vạn lý nan thông ư viễn tín 
Đồ bão trung quân chi niệm nhất phiến đan tâm 
Hà thăng hoài thổ chi tình song hành bạch phát 
Tư thánh chúa phương hoằng ư nhu viễn 
Cố ngu thần hữu ý ư quy triều 
Đế khuyết lộ dao di thiết hồ khâu chi niệm 
Thượng lâm thu tảo cảm bằng nhạn túc chi thư 
Ký đạt cửu tiêu thứ thông thốn nhiệm 
Thần khể thủ bất thăng kiều vọng chi chí 
Cẩn thư

Dịch nguyên thể: Nghĩ hộ bức thư gửi qua chim nhạn của Tô Vũ 

Cờ mao tuyết lấp, vết chìm sông núi đất Hồ; 
Tình khách gió đưa, sầu uẩn tháng năm trời Hán. 
Thư dâng một bức, tâm sự mấy tầng. 
Kẻ bầy tôi là Tô Vũ: 
Thẹn là Sứ, với tài hèn, giữa sân thù lo đối đáp, 
Bốn phương ngựa trạm, rong ruổi xa khuất đất nhà Chu; 
Hai chữ Trung trinh, mộng mị gần bên tướng nước Triệu. 
Quỳ gối chẳng theo vòng tay chuột; 
Giam tù cam khổ với lưới chim. 
Cây cỏ buồn rầu, bình mẻ tuyết rơi để uống; 
Tháng năm đằng đẵng, biển xa dê đực chưa sinh.
Tiết, tuyết cợt, gắng giữ gìn; 
Cờ, gió bay, nên rách tướp. 
Đất thù khốn khổ, sắt se gió sa mạc lạnh lùng; 
Quan ải xa xôi, quạnh quẽ cánh chim hồng chiếc bóng. 
Sao chỉ Nam mà quang Bắc, Trời phía Đông mà hướng Tây. 
Quê cũ hồn về, mộng ngợp ba canh lãnh cô nguyệt; 
Đất người lệ nhỏ, sầu đau chín khúc đoạn trường. 
Trăm bề muốn viết nỗi lòng xa, muôn dặm khó thông tin tức vắn.
Ý nhiệm trung quân đau đáu, một tấm lòng son; 
Cảm tình nhớ nước dạt dào, hai mai tóc bạc. 
Ơn Thánh Chúa rộng nhìn nơi xa ngái; 
Nên ngu thần có ý được về chầu. 
Đường đến kinh xa, tha thiết cáo mong về tổ; 
Thu sang rừng vắng, cậy nhờ nhạn chuyển thư chân. 
Dâng gửi trời cao, cảm thông ý mọn. 
Bày tôi rập đầu, khôn xiết vô cùng trông đợi. 
Cẩn thư





No comments:

Post a Comment