Showing posts with label Trần Anh Tông. Show all posts
Showing posts with label Trần Anh Tông. Show all posts

Oct 28, 2013

Đông cảnh

Tác giả: Trần Anh Tông 陳英宗
冬景
蒼描翠抹削晴峰
紫府樓倚半空
幾度碧桃先結實
洞天三十六春風

Thương miêu thuý mạt tước tình phong 
Tử phủ lâu đài ỷ bán không 
Kỷ độ bích đào tiên kết thực 
Động thiên tam thập lục xuân phong

Dịch nghĩa: 
Cảnh đông 
Vẽ mầu xanh, tô mầu thuý, thiên nhiên đẽo gọt nên chỏm núi tạnh sáng, 
Lâu đài của phủ tía dựa vào lưng chừng trời; 
Cây bích đào mấy lần đã kết quả trước, 
Gió xuân thổi khắp ba mươi sáu động trời.

Dịch thơ: 
Vẽ thắm, tô xanh sáng đỉnh non, 
Lưng trời phủ tía dựa chon von; 
Bích đào chín sớm bao nhiêu bận? 
Ba sáu cung trời gió ấm tuôn. 
                      Huệ Chi - Phạm Tú Châu 

II 
Đỉnh non sáng thắm, tươi xanh, 
Lâu đài, phủ tía, chanh vanh lưng trời;
Bao lần đào kết quả rồi, 
Gió xuân băm sáu động trời mơn man. 
                                                   Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Chỉ nơi ở của Thần Tiên hoặc Đế vương. 
- Bích đào: loại quả nơi tiên giới, sách Doãn Hỷ nội truyện ghi Lão Tử đi chơi phương Tây, thăm bà Thái Chân Vương Mẫu, cùng ăn bích đào và tử lê.



Oct 26, 2013

155. Đông Sơn tự

Tác giả: Trần Anh Tông 陳英宗
東山寺
風搖解虎秋蟬逈
月瀉軍持夜澗寒
休向五臺勞夢寐
看來天下幾東山

Phong dao giải hổ thu thiền quýnh 
Nguyệt tả quân trì dạ giản hàn 
Hưu hướng ngũ đài lao mộng mị 
Khan lai thiên hạ kỷ đông san

Dịch nghĩa: 
Chùa Đông Sơn 
Gió lay gậy thần tích, tiếng ve mùa thu im ắng, 
Trăng tãi ánh sáng xuống bình nước, dòng suối ban đêm lạnh lẽo; 
Dừng nhọc lòng mơ tưởng đến núi Ngũ Đài làm gì, 
Xem trong thiên hạ được mấy cảnh Đông Sơn?

Dịch thơ:
Gió lay thiền trượng ve im tiếng, 
Trăng chảy trong bình, suối lạnh hơn; 
Mơ ước Ngũ Đài chi nữa nhỉ, 
Trên đời hồ dễ mấy Đông Sơn. 
Huệ Chi 

II 
Gậy thiền, gió động, ve im, 
Nước bình trăng dãi suối đêm lạnh lùng; 
Ngũ Đài mơ mộng nhọc công, 
Dưới trời hồ dễ mấy vùng Đông Sơn?
                                                    Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
- Đông Sơn: chùa làm từ thời Lý trên núi Chương, huyện Ý Yên, tỉnh Nam Định, là danh thắng nước ta. 
- Gậy Thần tích, nguyên văn là “Giải hổ”, theo điển tích theo Cao tăng truyện: xưa thiền sư nước Tề là Tăng Trù thấy hai con hổ đánh nhau, lấy gậy thần tích gỡ chúng ra, từ đấy gậy thần tích được mệnh danh là giải hổ. 
- Bình nước, nguyên văn là “Quân trì” phiên âm từ tiếng Phạn, nghĩa là bình đựng nước của các nhà sư mang theo khi đi xa để uống hay rửa tay. 
- Ngũ Đài là dãy núi 5 ngọn rất cao, ở Đông Bắc huyện Ngũ Đài, tỉnh Sơn Tây, Trung Quốc.


Oct 25, 2013

Tứ hữu gián nghị đại phu Trần Thì Kiến hốt minh

Tác giả: Trần Thuyên (Trần Anh Tông 1276-1320) 陳英宗
賜右諫議大夫陳時見笏銘
泰山貞髙
象笏貞列
灵豸進角
爲笏難折

Thái sơn trinh cao 
Tượng hốt trinh liệt 
Linh trãi tiến giác 
Vi hốt nan chiết

Dịch nghĩa: 
Ban cho Hữu Gián Nghị đại phu Trần Thì Kiến bài minh khắc trên hốt 
Thái Sơn rất cao, 
Hốt ngà rất cứng; 
Trãi thiêng dâng sừng, 
Làm hốt khó gẫy.

Dịch thơ: 
Thái Sơn cực cao, 
Hốt ngà cực khỏe; 
Linh trãi dâng sừng, 
Hốt không thể bẻ. 
                     Huệ Chi 

II 
Thái Sơn, ngọn núi cao vời, 
Hốt ngà cứng cỏi một đời trung trinh; 
Con trãi dâng chiếc sừng thiêng, 
Hốt chẳng thể bẻ, không nghiêng chính tà. 
                                                        Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Trần Thuyên, con trưởng của vua Trần Nhân Tông, lên ngôi năm 1293 sau ba cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông. Đối ngoại vừa mềm dẻo, vừa quyết liệt từ chối sang chầu. Đối nội định kế sách có hiệu quả, mạnh dạn dùng người trẻ có tài, tuy còn thiếu kinh nghiệm như Nguyễn Trung Ngạn, Mạc Đĩnh Chi, Đoàn Nhữ Hài, Trương Hán Siêu,… Thơ ông giản dị, trong sáng, giàu tình cảm và trau chuốt, mở đầu cho dòng thơ vịnh sử nước nhà. Tác phẩm có Thạch dược phẩm và Thủy Vân tùy bút, nhưng đều bị chính tác giả thiêu hủy trước khi chết. 
– Trãi là một loài thú thần thoại, giống trâu nhưng chỉ có một sừng, biết phân biệt gian. ngay. Truyền rằng người xưa khi xử kiện, mang nó ra để húc kẻ gian. Tác giả đề cao tài xử kiện thông minh, chính trực của Trần Thì Kiến.