留別詩
江岸梅花正白
船頭細雨斜飛
行客三冬北去
將君一棹南歸
Giang ngạn mai hoa chính bạch
Thuyền đầu tế vũ tà phi
Hành
khách tam đông Bắc khứ
Tướng quân nhất trạo Nam quy
Dịch nghĩa:
Thơ lưu biệt
Trên bờ sông hoa mai đang nở trắng,
Trước đầu thuyền mưa nhỏ chênh chếch bay;
Giữa ba đông khách đi về Bắc,
Một mái chèo Tướng quân trở lại Nam.
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên
I
Trên bến, hoa mai đua trắng,
Đầu thuyền, mưa bụi
tạt ngang;
Hành khách ba người về Bắc,
Tướng quân một mái quay Nam.
II
Bên bờ
trắng xóa hoa mai,
Xiên xiên mưa bụi bay bay đầu thuyền;
Khách về đất Bắc ngoái
nhìn,
Tướng quân với một con thuyền về Nam.
Nghi vấn:
Sách Nam Ông mộng lục 南翁夢錄
của Hồ Nguyên Trừng do Ưu
Đàm, La Sơn soạn dịch, chú giải. Nguyễn Đăng Na giới thiệu, nhà xuất bản Hà Nội
1999 ghi: Mạc Ký đã làm bài thơ Lưu biệt trên. Quyển Thơ văn Lý Trần tập II, chủ
biên Nguyễn Huệ Chi, Ủy ban Khoa học xã hội Việt Nam, Viện Văn học, nhà xuất bản
Khoa học xã hội, Hà Nội năm 1988 ghi ở trang 719 cũng như vậy (chỉ khác chữ 冬 (Đông) thành 名 (Danh) và chú thích: Đầu đề 送使吟 (Tống sứ
ngâm) do người soạn thêm, và rút từ sách Nam Ông mộng lục.
Hai quyển sách
trên dịch đều nhầm vì bản chữ Hán không có dấu chấm, phẩy, từ đoạn 裳其歡之。至界,上留別詩云 người phiên dịch đã thêm dấu Chấm sau chữ 歡之 và viết hoa chữ 至 và dịch là: “Khi tới biên giới, Mạc
Ký đã làm bài thơ Lưu biệt như sau” (Người được tặng thơ hóa thành người làm
thơ tặng)
Có một điều rất
lạ là Thơ văn Lý Trần tập III, NXB Khoa học xã hội 1978 (trước tập II 10 năm), ở
trang 738, tác giả Tuấn Nghi dịch bài "Quý khách tương hoan" vẫn chấm câu như thế, và dịch
thì ghi: “”Đến biên giới, có thơ lưu biệt rằng”
Tôi, Đỗ Quang
Liên, người đã dịch trên 1000 bài thơ Tứ tuyệt ra lục bát, xin chữa lại là:
“Thường rất
vui thích, đến biên giới, Thường làm thơ lưu biệt rằng”
Tôi đặt đầu đề
là Lưu biệt thi và tác giả là Nguyên sứ Hoàng Thường.
No comments:
Post a Comment