Tác giả: Trần Hạo (Trần Dụ Tông 1336-1369) 陳皓 陳裕宗
唐太宗與本朝太宗
唐越開基兩太宗
彼稱貞觀我元豐
建成誅死安生在
廟號雖同德不同
Đường việt khai cơ lưỡng thái tông
Bỉ xưng trinh quán ngã nguyên
phong
Kiến thành tru tử an sinh tại
Miếu hiệu tuy đồng đức bất đồng
Dịch nghĩa:
Vua Thái Tông đời Đường với vua Thái Tông triều ta
Đường và Việt đều có vua mở mang cơ nghiệp thụy là Thái Tông,
Bên họ xưng là
Trinh Quán, Bên ta xưng là Nguyên Phong;
Kiến Thành bị giết chết, An Sinh thì
được sống,
Miếu hiệu tuy giống nhau nhưng đức độ lại khác nhau.
Dịch thơ:
I
Đường, Việt hai vua hiệu Thái Tông,
Đường xưng:
Trinh Quán, Việt: Nguyên Phong;
Kiến Thành bị giết, An Sinh sống,
Miếu hiệu tuy
đồng, đức chẳng đồng.
Đào Phương Bình
II
Hai vua đều hiệu Thái Tông,
Đường:
Tring Quán, Việt: Nguyên Phong khác miền;
Kiến Thành chết, An Sinh còn,
Tuy giống
miếu hiệu, không cùng lòng nhân.
Đỗ Quang Liên
Chú thích:
- Trần Hạo (Trần Dụ Tông) là con thứ 10 của vua Trần
Minh Tông, làm vua 28 năm, niên hiệu là Thiệu Phong (1341-1357) và Đại Trị
(1358-1369). Trong những năm Dụ Tông làm vua mất mùa xẩy ra liên tiếp, chính trị
đổ nát, nhân dân nhiều nơi nổi lên chống lại triều đình. Nhà Trần suy từ đó.
Theo
sử ghi: Ông có soạn bộ Trần triều đại điển, gồm 2 quyển, nay đã mất, chỉ còn một
bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục.
- Đường Thái Tông, vưa thứ hai nhà Đường, đặt
niên hiệu Trinh Quán, tên là Lý Thế Dân, con thứ của Lý Uyên (Đường Thái Tổ),
có công đánh dẹp lớn. Lý Uyên muốn truyền ngôi cho con trưởng là Kiến Thành, Thế
Dân không chịu. Kiến Thành và Nguyên Cát (em Thế Dân) mưu giết Thế Dân, nhưng bị
lộ, Thế Dân giết cả hai.
- Trần Liễu, tức An Sinh Vương, vợ là công chúa Thuận Thiên đã
có mang Quốc Khang 3 tháng. Năm 1237, Trần Thủ Độ ép Thái Tông lấy Thuận Thiên
là chị dâu, để làm việc lớn sau này. Trần Liễu họp quân chống lại, sau thế cô đến
xin hàng, lúc đó vua áy náy ra ở núi Yên Tử. Thủ Độ nghe tin, tìm đến đòi chém
Trần Liễu, vua dấu Trần Liễu dưới thuyền và nói với Trần Thủ Độ là Trần Liễu
hàng, xin Độ rút quân.
No comments:
Post a Comment