Apr 23, 2014

Đề ngô khê

Tác giả: Nguyễn Quý Ưng 阮季膺

題浯溪
石刻年深字已漫
幾回客過洗磨看
中興頌得春秋法
褒貶當時屬筆端

Thạch khắc niên thâm tự dĩ man 
Kỷ hồi khách quá tẩy ma khan 
Trung hưng tụng đắc xuân thu pháp 
Bao biếm đương thời thuộc bút đoan

Dịch nghĩa:  
Đề cảnh Ngô Khê  
Đá khắc lâu năm chữ đã mờ, 
Mấy lần khách qua phải rửa, mài để xem; 
Bài tụng Trung Hưng học được cách viết sách Xuân Thu, 
Sự khen chê bấy giờ là thuộc về ngòi bút ấy.

Dịch thơ: 

Bia khắc lâu năm chữ đã mờ, 
Khách qua đường xoa đọc bia xưa; 
Mới hay bút pháp Trung Hưng tụng, 
Sắc nét khen chê việc bấy giờ.
                                            Tuấn Nghi


II 
Lâu năm, chữ khắc đã mờ,
Từng nhiều du khách rửa, lau mới tường; 
Xưa Xuân Thu, lại Trung Hưng, 
Tụng, Kinh sắc sảo bút thường khen chê. 
                                                   Đỗ Quang Liên 


Chú thích: 
- Nguyễn Quý Ưng hiệu là Trác Phong, làm quan vào cuối đời Trần, có đi sứ Trung Quốc. Tác phẩm hiện còn hai bài thơ chép trong Toàn Việt thi lục. 
- Ngô Khê: con suối ở huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Nhà thơ Nguyễn Kiết đời Đường làm nhà ở đấy, làm văn bia Ngô Khê trung hưng bi, nói việc Đường Minh Hoàng gặp loạn An Lộc Sơn. 
- Bài tụng Trung hưng (Trung Hưng tụng): Đường Túc Tông dấy binh đánh An Lộc Sơn, khôi phục nhà Đường. Nguyên Kiết có dâng 3 bài tụng bàn về thời sự, chỉ trích việc đương thời, đời sau gọi là Trung Hưng tụng. 
- Xuân Thu: bộ sử biên niên nước Lỗ (từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công) nhưng cũng chép những sự kiện lớn thời Xuân Thu (từ Chu Bình Vương đến Chu Kính Vương, gồm 242 năm), trong đó Khổng Tử dùng bút pháp chỉ một chữ mà khen, chỉ một chữ ngụ ý chê. Đời sau gọi là Xuân Thu bút pháp và có câu: “Nhất tự chi bao, vinh ư ba cổn; Nhất tự chi biếm, nghiêm ư phủ việt” nghãi là Một chữ khen, vinh hơn mặc áo gấm; một chữ chê nghiêm hơn búa rìu.



No comments:

Post a Comment