Tác giả: Nguyễn Quý Ưng 阮季膺
題浯溪
石刻年深字已漫
幾回客過洗磨看
中興頌得春秋法
褒貶當時屬筆端
Thạch khắc niên thâm tự dĩ man
Kỷ hồi khách quá tẩy ma khan
Trung
hưng tụng đắc xuân thu pháp
Bao biếm đương thời thuộc bút đoan
Dịch nghĩa:
Đề cảnh Ngô Khê
Đá khắc lâu năm chữ đã mờ,
Mấy lần
khách qua phải rửa, mài để xem;
Bài tụng Trung Hưng học được cách viết sách
Xuân Thu,
Sự khen chê bấy giờ là thuộc về ngòi bút ấy.
Dịch thơ:
I
Bia khắc lâu năm chữ đã mờ,
Khách qua đường xoa
đọc bia xưa;
Mới hay bút pháp Trung Hưng tụng,
Sắc nét khen chê việc bấy giờ.
Tuấn
Nghi
II
Lâu năm, chữ khắc đã mờ,
Từng nhiều du khách rửa, lau mới tường;
Xưa
Xuân Thu, lại Trung Hưng,
Tụng, Kinh sắc sảo bút thường khen chê.
Đỗ Quang Liên
Chú thích:
- Nguyễn Quý Ưng hiệu là Trác Phong, làm quan vào cuối
đời Trần, có đi sứ Trung Quốc. Tác phẩm hiện còn hai bài thơ chép trong Toàn Việt
thi lục.
- Ngô Khê: con suối ở huyện Kỳ Dương, tỉnh Hồ Nam, Trung Quốc. Nhà thơ
Nguyễn Kiết đời Đường làm nhà ở đấy, làm văn bia Ngô Khê trung hưng bi, nói việc
Đường Minh Hoàng gặp loạn An Lộc Sơn.
- Bài tụng Trung hưng (Trung Hưng tụng): Đường
Túc Tông dấy binh đánh An Lộc Sơn, khôi phục nhà Đường. Nguyên Kiết có dâng 3
bài tụng bàn về thời sự, chỉ trích việc đương thời, đời sau gọi là Trung Hưng tụng.
- Xuân Thu: bộ sử biên niên nước Lỗ (từ Lỗ Ẩn Công đến Lỗ Ai Công) nhưng cũng
chép những sự kiện lớn thời Xuân Thu (từ Chu Bình Vương đến Chu Kính Vương, gồm
242 năm), trong đó Khổng Tử dùng bút pháp chỉ một chữ mà khen, chỉ một chữ ngụ
ý chê. Đời sau gọi là Xuân Thu bút pháp và có câu: “Nhất tự chi bao, vinh ư ba
cổn; Nhất tự chi biếm, nghiêm ư phủ việt” nghãi là Một chữ khen, vinh hơn mặc
áo gấm; một chữ chê nghiêm hơn búa rìu.
No comments:
Post a Comment