Tác giả: Cao Bá Quát
高伯适
今溪驛即事
幾處伯勞啼曉
一村梅子黄時
苦憶花陽店裡
客心初見荔枝
Kỷ xứ bá lao đề hiểu
Nhất thôn mai tử hoàng thì
Khổ ức mai
dương điếm lý
Khách tâm sơ kiến lệ chi
Dịch nghĩa: Trạm Kim
Khê tức sự
Nhiều nơi chim chàng làng kêu sáng,
Cả thôn mơ đã chín vàng;
Khổ
tâm nhớ lại trong điếm Hoa Dương,
Lòng khách lần đầu thấy quả vải.
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên
I
Đây đó chàng làng kêu sáng,
Cả
thôn mơ đã chín vàng;
Hoa Dương điếm đau nỗi nhớ,
Lệ chi mới thấy đưa sang.
II
Sáng kêu rộn tiếng chàng làng,
Quả mơ đã chín nhuốm vàng cả thôn;
Đau lòng nhớ
điếm Hoa Dương,
Vừa thấy quả vải đưa sang nước người.
Chú thích:
- Chàng làng: Loài chim sống thành đàn, thường
tranh nhau kêu khi trời sắp mưa, sắp tạnh, sắp sáng, có lẽ là loài chim báo thời
tiết chuẩn xác và tích cực.
- Hoa Dương: Tên trạm của huyện Hoa, thuộc tỉnh Quảng
Đông, Trung Quốc, trạm đầu tiên tiếp chuyển quả vải lên Tràng An.
- Lệ chi: Quả vải,
cống phẩm đặc biệt của xứ Giao chỉ dưới đời Đường, phải chuyển nhanh bằng ngựa
trạm.
No comments:
Post a Comment