Tác giả: Ninh Tốn
寜遜 (1743-?)
丁皇山廟
勁氣雄心括海山
廟留遺像五雲端
臨題追憶當年事
千載猶開墨客顏
Kính khí hùng tâm quát hải sơn
Miếu lưu di tượngngũ vân đoan
Lâm đề truy ức đương niên sự
Thiên tải do khai mặc khách nhan
Dịch nghĩa:
Miếu vua
Đinh trên núi
Khí tiết cứng mạnh,lòng hào hùng bao quát cả núi biển,
Núi
còn để lại pho tượng ở chỗ mây năm sắc;
Lúc đề thơ, nhớ lại việc thưở ấy,
Nghìn
năm còn mở mặt với khách văn chương.
Dịch thơ: Ngô
Văn Phú
I
Chí khí cao vời trùm núi sông,
Miếu lưu tượng cũ
sắc mây trùm;
Đề thơ nhớ lại chuyện năm ấy,
Rạng mặt làng văn mãi mãi còn.
Dịch thơ: Đỗ Quang Liên
II
Cao với chí khí trùm núi sông,
Tượng cũ
trong mây giữa miếu đường;
Lên núi đề thơ ôn thuở trước,
Ngàn năm rạng mặt
khách văn chương.
III
Tượng thờ giữa miếu ngang mây,
Tâm hùng tiết cứng tràn đầy
núi sông;
Đề thơ nhớ thuở hào hùng,
Rạng danh cho khách văn chương ngàn đời.
IV
Hùng tâm trùm cả núi sông,
Tượng xưa ngự giữa miếu đường trong mây;
Đề thơ nhớ
thuở trước đây,
Ngàn năm rạng rỡ mặt mày khách văn.
Chú thích:
- Đinh Tốn tên chữ là Khiêm Như, Hà Chi, hiệu Mẫn
Hiên, Chuyết Sơn cưu sĩ, quê Côi Trì, Yên Mô, Ninh Bình, đỗ Hương cống năm 19
tuổi, làm quan thời chúa Trịnh Sâm, soạn Quốc sử. Sau này ông đỗ Tiến sỹ, thăng
Công bộ tả thị lang, sau lại làm quan với nhà Tây Sơn đến chức Thượng thư bộ binh.
Tác phẩm: Chuyết Sơn thi tập, Tây Bộ mạn hứng.
- Miếu thờ vua Đinh: ở xã Phúc
Lai, Ý Yên, Nam Định (chú của tác giả).
No comments:
Post a Comment