May 18, 2013

Hãn tri âm (kỳ nhị)

Tác giả: Chu Hải Ngung (?-1207) 朱海顒

罕知音 其二
秋來涼氣爽胸襟
八斗才高對月吟
堪笑禪家痴鈍客
為何將語以傳心


Thu lai lương khí sảng hung khâm 
Bát đẩu tài cao đối nguyệt ngâm 
Kham tiếu thiền gia si độn khách 
Vi hà tương ngữ dĩ truyền tâm

Dịch nghĩa: 
Ít tri âm 
Mùa thu đến mát rượi, sảng khoái trong lòng, 
Những nhà thơ tài cao tám đấu* nhìn trăng ngâm vịnh; 
Đáng buồn cười những kẻ ngớ ngẩn trong làng  thiền, 
Cớ sao lại đem ngôn ngữ để “truyền tâm” cho người.

Dịch thơ:
Thu sang mát rượi, dạ lâng lâng, 
Tám đấu tài cao vịnh dưới trăng; 
Ngớ ngẩn! đáng cười thầy thuyết pháp, 
Sao đem ngôn ngữ để “truyền tâm”. 

II 
Thu sang sảng khoái trong lòng,
Tài cao tám đấu vịnh trăng dưới trần; 
Đáng cười thuyết pháp si đần, 
Sao đem ngôn ngữ “truyền tâm” cho người.
                                                              Đỗ Quang Liên


Chú thích: 
Chu Hải Ngung lúc nhỏ theo học đạo Nho, 26 tuổi đi tu ở chùa Quốc Thanh, núi Bí Linh, châu Nghệ An. Ông được vua Lý Cao Tông (1176-1210) rất trọng vọng.


*Tám đấu: 
Tạ Linh Vận thời Lục triều (Trung Quốc) nói: tài làm thơ trong thiên hạ có mười đấu, thì Tào Tử Kiến (Tào Thực) đã chiếm mất 8 đấu, riêng ta chiếm 1 đấu, chỉ còn 1 đấu để chia cho những người trong thiên hạ.


No comments:

Post a Comment