Nov 4, 2013

Điếu tẩu

Tác giả: Trần Quang Triều (1286-1325) 陳光朝
釣叟
遯浪吹潮上碧灘
櫓聲移入碧雲寒
幾回薄餌懸鐘鼎
那重桐江一釣竿

Độn lãng xuy triều thướng bích than 
Lỗ thanh di nhập bích vân hàn 
Kỷ hồi bạc nhị huyền chung đỉnh 
Na trọng đồng giang nhất điếu can

Dịch nghĩa: 
Ông già câu cá 
Sóng cá dồn đẩy nước triều lên dòng thác biếc, 
Tiếng mái chèo đưa hơi lạnh vào mây xanh; 
Đã bao lần coi nhẹ miếng mồi treo chuông vạc, 
Mồi ấy đâu có nặng bằng chiếc cần câu bên sông Đồng.

Dịch thơ: 
I
Thác biếc triều dâng sóng cá heo, 
Mây lồng hơi lạnh tiếng bơi chèo; 
Đồng Giang cần trúc từng xem nặng, 
Hơn cả mồi câu vạc đỉnh treo. 
                                   Phạm Tú Châu 

II 
Sóng dồn triều ngược bãi cao,   
Tiếng chèo khỏa khí lạnh vào mây xanh;   
Bao lần cởi bả lợi danh, 
Chi bằng thanh thản đầu ghềnh buông câu. 
                                                            Đỗ Quang Liên

Chú thích: 
- Cá đồn tức cá heo, người xưa cho rằng khi nào cá này nổi lên là biển có gió to sóng giữ. 
- Chuông vạc (chung đỉnh): chỉ công danh phú quý. 
- Chiếc cần câu trên sông Đồng: Nghiêm Quang, lúc nhỏ là bạn Quang Vũ, sau này khi lên ngôi vua, Quang Vũ mời ông ra làm quan nhưng ông từ chối, về đi câu ở sông Đồng. Đời sau ca ngợi ông có câu: “Đồng giang nhất ti, phù Hán cửu đỉnh”, nghĩa là một sợi dây câu trên sông Đồng nâng đỡ được chín vạc nhà Hán. Đài câu của Nghiêm Quang ở dưới núi Phú Xuân, trên sông Đồng, huyện Đồng Lư, tỉnh Chiết Giang, Trung Quốc.



 

No comments:

Post a Comment