Tác giả: Đỗ Khắc Chung 杜克鍾
詠菊其二
重陽摘蕊陶釀醉
秋夕餐英屈愛香
二老風流千載遠
天教菊隱出承當
Trùng dương trích nhuỵ đào
nhương tuý
Thu tịch xan anh khuất ái hương
Nhị lão phong lưu thiên tải viễn
Thiên
giao cúc ẩn xuất thừa đương
Dịch nghĩa:
Vịnh hoa cúc (bài 2)
Tiết trùng dương hái nhị, họ Đào ủ men say,
Chiều thu ngậm
cánh hoa, họ Khuất yêu hương ngát;
Phong độ hai ông già đã nghìn năm xa rồi,
Nay
trời trao chức “hoa cúc ẩn dật” phải ra gánh vác.
Dịch thơ:
I
Trùng cửu hái hoa, Đào cất rượu,
Chiều thu nếm
nhuỵ, Khuất yêu hương.
Phong lưu hai vị nghìn năm khuất,
Cúc Ẩn trời trao, hãy
đảm đương.
Huệ Chi
II
Ủ men hoa hái Trùng Dương,
Chiều thu nếm nhụy, yêu hương
cúc nồng,
Hai già đã cách ngàn trùng,
Trời cao Cúc Ẩn ra đương việc đời.
Đỗ
Quang Liên
Chú thích:
- Trùng Dương: tết mùng 9 tháng 9; Đào Tiềm (tự là
Uyên Minh, 365-427) yêu hoa cúc. Câu thứ nhất muốn nói Đào Tiềm, ngày 9 tháng 9
hái hoa cúc, ủ men nấu rượu.
- Câu 2 muốn nói đến Khuất Nguyên (340-278 TCN) người
nước Sở thời Chiến Quốc, tính trung thực, cao khiết, bị vua nước Sở bỏ rơi, ông
làm bài Ly Tao nổi tiếng, trong bài thường dùng hoa cúc, ví với phẩm chất trong
sạch của mình.
- Câu 4, tác giả có ý chỉ mình, vì tên tự của ông là Cúc Ẩn.
No comments:
Post a Comment